Bốn ngày trôi qua. Đến ngày thứ năm, thủy chung Đức Vua của cái Xứ Người Mù vẫn không ma nào biết đến, vẫn chỉ là một kẻ xa lạ, vụng-về, vô-tích-sự giữa đám thần dân của mình.
Nunez nhận ra tự xưng là Vua khó hơn hắn tưởng và trong lúc hắn mưu đồ một cuộc đảo-chính thì hắn đành cắn răng tuân theo mệnh-lệnh của họ, học phong-cách, tập-tục của Xứ Người Mù. Hắn thấy phải làm việc và di-chuyển ban đêm là một chuyện chán ngán nên quyết-định đó sẽ là điều hắn thay đổi trước nhất.
Họ có một cuộc sống giản-dị, cần-mẫn với đầy đủ yếu-tố đạo-đức và hạnh-phúc theo mức hiểu biết của loài người. Họ làm việc nhưng không làm quần-quật, họ có dư giả thực-phẩm và quần áo, họ có ngày nghỉ và mùa nghỉ, họ ưa đàn hát và cũng biết yêu đương, sinh con đẻ cái.
Đáng phục là họ di-chuyển cứ thoăn-thoắt trong cái thế-giới ngăn-nắp của họ một cách đầy tự tín và chuẩn-đích. Vật gì ở đây cũng được sắp đặt theo nhu-cầu của họ, mỗi con đường rẽ ngang đều bẻ góc giống hệt nhau và có một cái hình khía riêng ở vỉa hè để đánh dấu. Tất cả mọi chướng-ngại-vật hay những chỗ gồ-ghề trên lối đi, trên bãi cỏ đã được dẹp đi, san bằng từ lâu. Tất cả những phương-pháp bố-trí tất nhiên đều để đáp ứng nhu-cầu đặc-biệt của họ. Giác-quan họ đã trở nên linh-mẫn tuyệt-vời, họ có thể nghe và xác định được từ cái cất tay nhẹ của một người đứng cách xa hàng chục thước, có thể nghe được cả tiếng tim người kia đập. Với họ, đã từ lâu, lời nói thay thế cho nét mặt, hay cử chỉ, giáng-điệu. Họ có thể sử dụng cái cuốc, cái mai, cái chĩa một cách thuần-thục như bất cứ một người làm vườn nào. Khứu-giác họ bén-nhậy tuyệt-trần, họ có thể phân-biệt hơi người y như loài chó. Họ biết chăn nuôi những con đà-mã trên núi xuống kiếm thức ăn hay chỗ trú ngụ ở chân tường dễ như chơi, không hề ngập-ngừng. Mãi đến khi Nunez có ý định bắt họ phục oai mình hắn mới khám-phá ra những hành-động của họ chuẩn-đích và đầy tự tín đến bậc nào.
Hắn chỉ nổi loạn sau khi thử thuyết-phục họ không xong. Thoạt đầu, hắn muốn dậy cho họ hiểu thế nào là nhìn được : " Bà con hãy nghe đây, có nhiều điều bà con không hiểu tôi đâu " hắn nói đi nói lại nhiều lần.
Đôi khi, có vài người chịu khó để tai nghe. Họ ngồi, mặt cúi xuống, tai khôn khéo hướng về phía hắn và hắn cố sức giảng cho họ nhìn được là cái gì. Trong số những người nghe hắn có một cô gái mà hai mi mắt ít đỏ và không sâu-hoắm như những người khác, khiến ta có cảm tưởng cô đang nhắm lại giấu hai con mắt đi, và cô là người hắn đặc-biệt muốn thuyết-phục. Hắn tả những cái đẹp mà mắt nhìn thấy như những ngọn núi, vòm trời, cảnh bình-minh và họ lắng nghe hắn nói, thoạt đầu thấy ngộ-nghĩnh vui vui nhưng không tin, cuối cùng thì lên án. Họ bảo cho hắn biết thật sự không có cái gì gọi là núi cả và chỗ tận cùng của những tảng đá mà loài đà-mã thường gậm cỏ cũng là tận cùng của thế-giới. Ở chỗ ấy bắt đầu có cái mái khum-khum của vũ-trụ, sương và thác đổ xuống từ đấy. Khi hắn cãi rằng vũ-trụ không có chỗ tận cùng và cũng không có cái mái khum-khum như họ tưởng thì họ tuyên-bố những suy-luận của hắn là tội lỗi. Cho tới nay, nghe hắn tả những cảnh trời mây, trăng sao, họ chỉ thấy đó là một cõi rỗng không, xấu-xí, ghê-rợn, thay thế cho cái mái khum-khum nhẵn thín mà họ tin tưởng ? họ thành-khẩn tin rằng cái mái khum-khum hoàn-toàn nhẵn nhụi. Hắn nhận ra phần nào những điều hắn nói khiến họ trái tai nên bỏ qua khía cạnh này và thử cho họ thấy giá-trị thực-tế của đôi mắt sáng, còn biết nhìn. Một buổi sáng hắn trông thấy Pedro đang đi trên con đường số 17, tiến về phía những ngôi nhà ở trung-tâm, nhưng cũng còn khá xa để họ có thể nghe hay đánh hơi thấy. Hắn liền báo trước : " Tị nữa Pedro sẽ tới đây ". Một ông già cãi : " Pedro không có việc gì để đi trên con đường số 17 " và như để chứng-minh, khi đến gần, Pedro liền rẽ quặt sang đường số 10, quay gót hướng về phía bức tường vây. Họ bèn chế-nhạo Nunez khi không thấy Pedro đến. Sau đó, hắn vặn hỏi Pedro cho ra nhẽ thì anh này chối bay, sừng-sộ và từ đó trở đi hằn-học với hắn.
Lại có lần hắn dỗ họ để hắn leo qua sườn đồi cỏ đến chân bức tường vây với một người nào tình-nguyện đi theo, hắn hứa sẽ tả cho người ấy tất cả những gì xẩy ra từ các ngôi nhà trong làng. Hắn trông rõ họ đi đi lại lại, nhưng những sự việc đáng kể đối với họ thì lại xẩy ra ở bên trong hoặc đằng sau những ngôi nhà không có cửa sổ thành thử hắn không thể trông thấy hay tả ra được ? và họ thì chỉ có thể phê-phán hắn qua những sự việc này. Sau lần thất-bại ấy hắn bị nhạo-báng quá bèn dùng đến vũ lực. Hắn định nắm lấy một cái mai rồi bất ngờ quật ngã một vài tên trong bọn để cho họ thấy, trong một cuộc chiến-đấu công-bằng, có đôi mắt sáng vẫn hơn. Hắn quả đã chộp lấy một cái mai nhưng phát-hiện liền đó một điều mới lạ trong hắn, hắn không thể nhẫn-tâm đánh dập một kẻ mù lòa.
Hắn lưỡng-lự, nhận ra họ đều biết hắn đã giật được một cái mai. Họ đứng thủ thế, đầu nghiêng một bên, tai vểnh lên hướng về phía hắn, dò động tĩnh.
" Buông cái mai xuống " một người ra lệnh, và hắn cảm thấy một nỗi kinh-hoàng bất lực. Hắn đã sắp sửa bó tay chịu khuất-phục.
Đột-nhiên, hắn đẩy một người bắn lùi về phía cái vách nhà, lướt vèo qua mặt người này, thoát ra khỏi làng.
Hắn chạy ngang đồng cỏ, để lại dấu chân giẫm bừa bãi trên cỏ, rồi ngồi xuống bên lề đường. Hắn thấy hào-khí bừng-bừng trong lòng như những người trước khi xuất trận, nhưng phức-tạp hơn. Hắn bắt đầu nhận ra người ta không thể sẵn lòng đối địch với những kẻ mà tâm cơ khác hẳn mình. Hắn trông rõ đằng xa một bọn người mang thuổng cuốc, gậy-gộc chạy ra dàn thành hàng chữ nhất trên những con đường đi về phía hắn. Họ bước từ từ, chốc chốc châu đầu bàn tán với nhau, thỉnh-thoảng cả đoàn dừng lại lắng tai và đánh hơi.
Lần đầu tiên thấy thế Nunez phì cười. Sau đó hắn không cười được nữa.
Một người tìm thấy vết chân hắn trên cỏ, lom-khom cuối xuống dò-dẫm tìm đường.
Trong năm phút, Nunez ngắm hàng người chầm-chậm tiến lên rồi ý nghĩ lờ-mờ phải ra tay ứng phó kịp thời trở nên cấp-bách. Hắn đứng dậy bước vài bước về phía bức tường thành rồi xoay mình trở gót đi ngược lại. Họ đứng dàn theo hình cánh cung, yên lặng lắng tai.
Hắn cũng đứng yên, hai tay lăm-lăm nắm chặt cán mai. Có nên nện cho họ một trận không ? Mạch máu trong tai hắn đập lùng-bùng theo điệu " Trong Xứ Mù Thằng Chột làm Vua ! "
Có nên đánh ẩu họ không ?
Hắn quay nhìn bức tường thẳng tắp sau lưng, trát vữa nhẵn-nhụi trừ những nơi có đục cửa ra vào nhỏ, rồi lại nhìn hàng người truy-nã hắn đang nhích lại gần. Đằng sau họ, vô số những người khác đang bước ra khỏi con đường cái. Có nên quật cho họ một trận nên thân không ?
" Bogota ! Bogota ! ngươi ở đâu thế ? " một người cao giọng hỏi.
Hắn khư-khư nắm cái mai chặt hơn, đi lần xuống đồng cỏ đến khu vực có người ở. Hắn vừa di động tức thì họ đổ dồn về phía hắn. " Nếu bọn nó mà động vào ta là ta quyết sẽ giết sạch cả lũ ! Thề với Trời là ta sẽ đập chúng tan xương ra ". Rồi hắn gào :
" Này, các người khôn hồn thì hãy nghe tôi nói. Ở cái thung-lũng này, tôi chỉ làm những cái gì tôi thích. Đã nghe chửa ? Tôi chỉ làm cái gì tôi thích và đi đến chỗ nào tôi muốn. "
Họ sấn lại vây quanh hắn rất nhanh, quờ-quạng thế mà thần-tốc đáo để, gần như ta chơi trò bịt mắt bắt dê, chỉ khác ở đây tất cả đều bịt mắt trừ một người.
" Túm lấy nó ! " một người hét to. Hắn thấy mình bị lọt vào vòng vây. Đột nhiên, hắn thấy cần phải cương-quyết ra tay.
" Các người không biết là các người đã bị mù còn tôi là kẻ sáng mắt. Hãy để cho tôi yên thân ". Hắn gầm lên, giọng cố tỏ ra dõng-dạc nhưng kỳ thực thì lắp-bắp.
" Bogota ! muốn sống thì bỏ cái mai xuống và lập tức bước ra khỏi cỏ ! "
Cái mệnh lệnh kẻ cả này làm hắn sôi giận : " Tôi sẽ đập cho các người một mẻ ". Hắn vừa nói vừa khóc. " Tôi thề là tôi sẽ đập các người một trận tơi-bời cho mà xem ! Hãy kệ xác tôi ! "
Hắn bắt đầu bỏ chạy, nhưng không biết phải chạy đi đâu. Hắn lánh xa chỗ người mù gần nhất bởi hắn không nỡ đánh đập người này. Hắn dừng lại rồi vọt mình, tìm cách thoát khỏi vòng vây đang thu hẹp dần. Thấy chỗ nào có lỗ hổng là hắn lướt đến, những người đui đứng hai bên vừa nghe tiếng chân hắn lập tức hè nhau đổ xô lại chặn lối nhanh như chớp, va đụng phải nhau. Hắn nhẩy bổ ra đằng trước, thấy bí lối, liền giáng cái mai đánh phập xuống. Hắn cảm thấy cái mai đánh trúng tay ai mềm mềm, rồi người ấy ngã xuống kêu lên đau đớn. Thế là hắn thoát hiểm.
Thoát ! Bây giờ hắn quay lại gần con đường cái hai bên có nhà. Đám người mù múa may những cái mai, cái cọc, chạy đi chạy lại khá nhanh.
Hắn vừa kịp nghe tiếng bước chân ở sau lưng thì một người cao cao sấn-sổ chạy đến nghe thấy tiếng hắn liền hết sức bình sinh phang xuống một đòn. Hắn mất bình-tĩnh, lao mạnh cái mai về phía đối-thủ, lia một vòng rồi bỏ chạy, cuống quýt gào lên khi phải tránh một người mù khác.
Hắn hốt-hoảng, chạy xuôi chạy ngược đùng đùng, tránh né khi không cần phải tránh né ai, và vì quá kinh-mang, muốn nhìn cả bốn phía cùng một lúc, nên loạng-choạng vấp, ngã lăn chiêng, và họ nghe thấy tiếng hắn ngã huỵch xuống. Tít-tắp đằng xa, nơi bức tường thành có một cái cửa nhỏ trông chẳng khác cảnh thiên-đường, thế là hắn chạy thục mạng về phía ấy, không buồn quay lại nhìn những người đuổi theo đằng sau mãi tới khi yên trí đã bỏ rơi họ một quãng xa. Hắn lảo-đảo vượt cái cầu, leo lên núi đá khiến một con đà-mã nhỏ kinh-ngạc và sợ-hãi nhẩy vọt ra xa rồi nằm xuống phập-phồng thở dốc.
Thế là kết-thúc cuộc đảo-chính của hắn.
Hắn lẩn trốn ngoài bức tường vây thung-lũng hai ngày hai đêm giòng-giã, không ăn uống cũng không nơi trú ẩn, nghiền-ngẫm những cái bất trắc ở đời. Trong lúc suy-nghĩ miên-man hắn hay nhắc đi nhắc lại một cách hết sức hài-hước câu ngạn-ngữ trớ-trêu " Trong Xứ Mù Thằng Chột làm Vua ! "
Hắn nhẩm tính thiên phương nghìn kế để chế-ngự những người mù nhưng nhận thấy rõ ràng hắn thúc thủ trên thực-tế. Hắn không có vũ khí và muốn có vũ khí lúc này mới thật gian-nan.
Ảnh-hưởng tai hại của văn-minh đã theo hắn từ Bogota, hắn chẳng thể táng tận lương-tâm đang tay gia hại một kẻ mù lòa. Dĩ nhiên nếu nhẫn-tâm được thì hắn có thể uy-hiếp họ, ra điều-kiện, hạ sát những ai không tuân theo hắn. Thế nhưng chẳng chóng thì chầy hắn còn phải ngủ !?
Hắn đến rặng thông xục-xạo kiếm thức ăn và ẩn thân dưới vòm cây khi sương giá ban đêm đổ xuống và ? với không mấy tin-tưởng ? thử bắt một con đà-mã, lấy đá đập chết nó chẳng hạn, để ăn thịt. Nhưng loài đà-mã nghi kỵ hắn, nhìn hắn với cặp mắt nâu e-dè, phun phì-phì mỗi lần hắn mon-men lại gần. Đến ngày thứ nhì, hắn bắt đầu sợ và run lẩy-bẩy, rùng mình từng chập. Cuối cùng, hắn đành bò lết xuống bức tường thành, tìm cách thương-lượng. Hắn men theo bờ suối, cất tiếng gọi to cho tới khi có hai người mù bước ra khỏi cổng tiếp chuyện.
" Tôi hành-động như một thằng rồ, nhưng tôi chỉ là một kẻ khờ dại mới có nhân dạng " hắn nói.
Họ trả lời là hắn đã biết điều hơn. Hắn nhìn nhận bây giờ hắn đã chín-chắn, khôn-ngoan hơn trước và hối-hận vì đã làm những điều xằng-bậy, không nên không phải.
Rồi hắn khóc, nước mắt ràn-rụa mặc dầu không cố ý ? vì hắn quá đuối sức, đầu óc choáng-váng, tối tăm mặt mũi ? họ cho đấy là một triệu chứng tốt.
Họ gạn hỏi hắn có còn nghĩ hắn vẫn nhìn được không ?
" Không. Nói như thế là ngông cuồng. Chữ nhìn không có nghĩa gì cả, hoàn toàn vô-nghĩa-lý. "
Họ lại hỏi trên cao có gì ?
" Trên cao chừng mười đầu người có một cái mái khum-khum bằng đá nhẵn thín, che phủ khắp thế-giới ". Hắn bật khóc hu hu. " Trước khi hạch hỏi tôi, hãy cho tôi ăn cái gì. Tôi đói lả rồi ! "
Hắn tưởng mình sẽ bị nghiêm-trừng, song những người mù tỏ ra biết khoan-hồng. Họ cho cuộc nổi loạn của hắn là thêm một bằng chứng hắn ngu-đần, thấp kém. Sau khi phạt trượng, họ giao cho hắn những công việc đơn-giản, nặng-nề, xốc vác nhất và hắn thấy không còn đường nào khác, túng thế, đành dằn lòng cúi đầu nhất nhất tuân theo.
Hắn ốm nằm bẹp mất mấy ngày và họ săn-sóc hắn tử tế. Điều này càng khiến hắn ngoan-ngoãn phục-tùng hơn. Nhưng họ nhất định bắt hắn nằm trong bóng tối làm hắn khổ-sở vô cùng. Thế rồi các nhà hiền-triết mù lò-dò đến thăm hắn, trịnh- trọng giảng cho hắn hiểu óc hắn còn non nớt, nông-nổi, và cực lực thống-trách hắn táo gan dám không tin có cái vung bằng đá che khắp thế-gian như lòng chảo của họ. Hắn đã bắt đầu nao-núng, tự hỏi có phải hắn là nạn nhân của ảo-tưởng khi không nhìn thấy cái vung bên trên.
Thế là Nunez nghiễm-nhiên trở nên thần dân của cái Xứ Người Mù. Những người này đối với hắn bây giờ không còn là người mù nói chung chung nữa, hắn bắt đầu biết phân-biệt từng người, trong khi cái thế-giới bên kia rặng núi càng ngày càng thấy xa-xôi và trở nên viễn ảnh. Ở đây có Yacob, chủ hắn, là một người tốt khi nào ông ta không bực mình khó chịu. Lại còn Pedro, cháu ông và Medina-saroté, con gái út ông. Trong cái thế-giới của người mù cô không mấy được ưa chuộng vì cô có một khuôn mặt sắc-sảo, bén nhọn thiếu những nét tròn-trĩnh mà người mù coi là sắc đẹp lý tưởng, nhưng Nunez thấy cô đẹp ngay từ phút đầu và bây giờ cho là cô đẹp nhất đời. Cặp mắt cô nhắm lại, lép chứ không sâu-hoắm cũng không đỏ ửng bằng mắt những người khác, tựa hồ như cô sắp-sửa mở choàng mắt ra bất cứ lúc nào. Hàng lông mi dài của cô bị coi là khuyết-điểm khiến mặt cô dị-dạng, thanh âm rành-rọt của cô không vừa đôi tai thính của những chàng nông dân quê mùa cục-mịch, thành thử cô không có người yêu.
Đã có lúc Nunez nghĩ quý hồ chinh-phục được Medina-saroté thì hắn sẽ cam tâm lưu lại cái thung-lũng này suốt đời.
Hắn đã có tình-ý nên theo dõi, chờ đợi những cơ hội giúp đỡ nàng đôi chút và giờ thì hắn biết nàng cũng để ý quan-sát hắn. Một hôm, trong buổi hội họp vào ngày nghỉ, hai người ngồi sát cạnh nhau dưới ánh sao mờ, bên tai lại có tiếng đàn dìu-dặt. Hắn đặt tay lên tay nàng và cả gan nắm lấy. Thế rồi nàng âu-yếm, nhè-nhẹ bóp trả lại. Lại có một lần, khi ăn cơm trong bóng tối, hắn thấy nàng đưa tay nhẹ-nhàng tìm kiếm hắn, tình cờ ngọn lửa lóe sáng lúc ấy , hắn trông rõ nét mặt thương yêu của nàng.
Hắn lân-la tìm cách bắt chuyện với nàng. Một hôm hắn đến gập nàng khi nàng đang ngồi quay tơ, dưới ánh trăng vằng-vặc nàng chói ngời như bạc và huyền-ảo vô cùng. Hắn ngồi xuống mé chân nàng và tỏ tình, ca tụng sắc đẹp của nàng. Giọng lưỡi hắn là giọng lưỡi của một kẻ si-tình, một lòng thành-khẩn gần như tôn thờ nàng, mà nàng thì chưa bao giờ được nghe những lời đường mật. Nàng không trả lời dứt khoát nhưng rõ ràng những lời hắn thốt làm xiêu lòng nàng.
Từ đó, hễ có dịp là Nunez lại mon-men trò chuyện với nàng. Cái thung-lũng này đã trở nên thế-giới của hắn, còn cái thế-giới bên kia dẫy núi, nơi mà mọi người đều hoạt-động dưới ánh dương-quang đối với hắn bây giờ chẳng khác gì một chuyện thần tiên mà hắn sẽ kể cho nàng nghe một ngày kia. Dần dà, hắn thủ-thỉ với nàng về đôi mắt sáng nhìn được.
Nhưng đối với nàng, dường như nhìn được là một ảo-tưởng vô cùng thơ mộng. Nàng lắng nghe hắn tả các vì sao, những ngọn núi, và sắc đẹp sáng ngời của chính nàng dưới ánh trăng, coi như là một hành-vi khoan-dung nhưng tội lỗi. Nàng không tin và cũng chỉ hiểu lờ-mờ độ một nửa, song nàng bị mê-hoặc và hắn tưởng như nàng đã thấu hiểu tất cả.
Tình yêu của hắn bớt vẻ tôn sùng, trở nên bạo dạn hơn. Hắn quyết-định xin phép Yacob và các bô lão cho hắn kết tóc xe tơ với nàng nhưng nàng sợ-sệt xin trì-hoãn. Chính là một cô chị nàng đã mách với Yacob rằng Nunez và Medina-saroté yêu nhau.
Bookmarks