Trang 7 / 19 FirstFirst ... 24567891012 ... LastLast
Hiển thị kết quả từ 61 đến 70 / 184
  1. #61
    Tham gia
    20-06-2007
    Bài viết
    32
    Like
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Quote Được gửi bởi Huỳnh Tấn View Post
    Báo cáo bác, em chẳng dám đánh sai. Bác chưa bao giờ thấy là vì bác chưa... thấy bao giờ đó thui. Em thì thấy lâu rùi:




    Sẽ có giải thích chi tiết thêm cho bác sau
    Cũng có lý
    Bác Huỳnh Tấn cho em hỏi tí,
    Cuốn ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ của bác scan hay bác down về? Nếu down về bác cho em xin link. Cảm ơn bác trước

  2. #62
    Tham gia
    20-06-2007
    Bài viết
    32
    Like
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Như thông tin ở trên thì cuốn ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ xuất bản cách đây 111 năm???

  3. #63
    Tham gia
    26-09-2003
    Location
    Tp Hồ Chí Minh
    Bài viết
    88
    Like
    0
    Thanked 13 Times in 10 Posts

    Hạnh phúc

    Những Cuộc Đổi Họ Lớn Trong Lịch Sử
    Giáo Sư Trần Gia Phụng
    Toronto, Canada

    1. Từ họ Lý ra họ Nguyễn
    Đầu năm 1226 (tháng 12 năm Ất Dậu), Trần Thủ Độ tổ chức đảo chánh lật đổ nhà Lý, đưa Trần Cảnh lên ngôi tức Trần Thái Tông (trị vì 1226-1258), lập ra nhà Trần (1226-1400).
    Nguyên Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông (trị vì 1211-1224) nhường ngôi cho người con gái mới sáu tuổi là Chiêu Thánh công chúa tháng Mười năm giáp thân (cuối 1224), tức Lý Chiêu Hoàng (trị vì 124-1225). Lý Huệ Tông lên làm thái thượng hoàng, xuất gia đi tu tại chùa Chân Giáo, pháp danh là Huệ Quang thiền sự Trần Thủ Độ sắp đặt cho con cháu của mình là Trần Cảnh, mới tám tuổi, cưới Lý Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng lại nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh tức Trần Thái Tông. Để củng cố nhà Trần, Trần Thủ Độ kiếm cách tiêu diệt tất cả con cháu nhà Lý. Việc đầu tiên là Trần Thủ Độ bức tử thượng hoàng Lý Huệ Tông. Một hôm ngang qua chùa Chân Giáo gặp thiền sư Huê. Quang đang nhổ cỏ trong vườn, Trần Thủ Độ nói rằng: “Nhổ cỏ phải nhổ hết rễ cái.” Nghe thế thầy Huệ Quang trả lời: “Lời nhà ngươi nói ta hiểu rồi.” Sau đó, Trần Thủ Độ cho người mời thầy Huệ Quang vào triều bàn việc. Huệ Quang biết ý, vào sau chùa thắt cổ tự vận. (1)
    Trần Thủ Độ ra lệnh đem gả các cung nhân và con gái họ Lý cho các tù trưởng các bộ tộc ít người ở các vùng núi xa xôi miền biên viễn. Tháng tư năm nhâm thìn (1232), nhân việc ban chữ húy về tiên tổ họ Trần, ông nội của Trần Thái Tông tên là Trần Lý, nên Trần Thủ Độ đưa ra biện pháp quyết liệt là buộc con cháu họ Lý phải đổi thành họ Nguyễn.
    Gần cuối năm nhâm thìn (1232), tôn thất nhà Lý tập trung làm lễ tế tổ tiên ở thôn Thái Đường, xã Hoa Lâm (nay thuộc Bắc Ninh). Trần Thủ Độ cho làm nhà tế lễ bằng tre lá trên một cái hầm, khi con cháu nhà Lý tập trung hành lễ, Trần Thủ Độ ra lệnh chôn sống hết con cháu nhà Lý để dứt điểm một vấn đề làm cho Trần Thủ Độ lo lắng bấy lâu nay. Sau cuộc thanh trừng khủng khiếp này, con cháu nhà Lý không còn dám về Bắc Ninh làm lễ tế hàng năm, và họ thay tên đổi họ sống lẫn khuất trong dân gian để tránh bị tiêu diệt. (2)
    Đặc biệt hoàng tử Lý Long Tường, con trai thứ của Lý Anh Tông đã bỏ nước ra đi năm 1226, cùng đoàn tùy tùng khoảng 40 người vượt biên sang lập nghiệp ở Triều Tiên hay Cao Ly tức Korea. Tám trăm năm sau, con cháu của hoàng tử này đã về Việt Nam thăm lại đất tổ. (3)
    Một câu hỏi cần được đặt ra là tại sao triều đình nhà Trần buộc họ Lý đổi thành họ Nguyễn mà không qua họ khác? Điều này rất khó trả lời vì không có tài liệu cụ thể, chỉ biết được rằng họ Nguyễn là một dòng họ ít người bên Trung Hoa, và ngược lại họ Nguyễn có nhiều và có sớm ở nước ta. (4) Phải chăng Trần Thủ Độ muốn cho họ Lý hòa lẫn trong số đông người Việt rải rác khắp nước?

    2. Họ Trần qua họ Trình
    Để quân Minh chóng rút về nước, cuối năm 1427, Lê Lợi chấp nhận giải pháp hòa bình trong danh dự cho cả hai bên: trước đây quân Minh xâm lăng nước ta dưới chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, nay Lê Lợi đồng ý đưa Trần Cao lên ngôi, xem như quân Minh viễn chinh đã đạt được mục đích ban đầu là đưa người họ Trần trở lại ngôi báu, nay rút về nước trong vinh quang. (5)
    Sau khi quân Minh về nước, Trần Cao biết thân phận mình, bỏ trốn về châu Ngọc Ma (Nghệ An), nhưng bi bắt lại, và uống thuốc độc chết. Lê Lợi lên ngôi vua, tức Lê Thái Tổ (trị vì 1428-1433). Lê Thái Tổ được nước không do một cuộc đảo chánh cung đình mà do công lao chiến đấu của chính ông và gia đình, nên ông ít có thái độ kỳ thị với ho. Trần là họ cầm quyền trước đó. Ông có một sách lược rất khôn khéo là ban quốc tính rộng rãi cho các công thần. Ngay khi vừa lên ngôi năm 1428, Lê Thái Tổ ra sắc chỉ cho ghi chép công trạng của những người đã theo vua khởi nghĩa, ban chức tước và quốc tính (họ của nhà vua) cho 221 người. Đây là đợt ban quốc tính nhiều nhất trong lịch sử nước ta, đến nỗi vua Tự Đức đã lên tiếng chê rằng “...cho quốc tính nhiều quá như thế nầy thì nhàm lắm.” (6)
    Việc làm nầy của Lê Thái Tổ bề ngoài xem ra là một đặc ân, nhưng thật sự là một thủ đoạn chính trị ràng buộc các công thần bằng cách đồng hóa các quan vào họ nhà vua để dễ kiểm soát nhằm tránh hậu hoạn. Lê Thái Tổ là một người rất đa nghi. Những công thần đã cùng ông dày công đóng góp cho công cuộc giải phóng đất nước mà có bất cứ một biểu hiện nào khả nghi tức thì bị Lê Thái Tổ tiêu diệt ngay.
    Nạn nhân đầu tiên là Lê Hãn tức Trần Nguyên Hãn. Trần Nguyên Hãn dòng dõi Trần Nguyên Đán, lập nhiều chiến công thời kháng Minh, được phong Hữu tướng quốc và họ Lê năm 1428, sau khi Lê Thái Tổ cầm quyền. Lê Hãn cho rằng “nhà vua có tướng như Việt Vương Câu Tiễn, không thể cùng hưởng yên vui sung sướng được,” nên ông bắt chước Trương Lương, xin rút lui về hưu dưỡng. “Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng,” khi Lê Hãn về ấp Sơn Đông (Sơn Tây ngày nay) hưu dưỡng, ông vẫn bị gièm pha là mưu toan làm phản. Lê Thái Tổ ra lệnh cho người đến bắt. Khi thuyền đến bến sông Sơn Đông, Lê Hãn tự trầm mình qua đời (7). Dĩ nhiên việc trầm mình nầy cũng là một dấu hỏi lớn không bao giờ được trả lời.
    Sau Lê Hãn đến Lê Văn Xảo tức Phạm Văn Xảo, bị Lê Thái Tổ nghe lời gièm pha ra lệnh phải chết và tịch thu nhà cửa cuối năm 1430. Dưới triều con của Lê Thái Tổ là Lê Thái Tông (trị vì 1434-1442), thêm ba vị đại công thần bị giết là Lê Nhân Chú (1434), Lê Sát (1437),
    và Lê Ngân (1437). Ngoài ra còn có Lê Khả và Lê Khắc Phục bị triệt hạ vào năm 1451 thời vua Lê Nhân Tông (tri. vì 1443-1459).
    Sau khi Lê Nghi Dân bị các tướng lãnh phản đảo chánh và lật đổ năm 1460, Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497) được sử sách đánh giá là một minh quân, nhưng lại đi vào vết xe của nhà Trần. Vừa cầm quyền được hai tháng, Lê Thánh Tông hạ chiếu ra lệnh đổi tên những họ nào đã phạm vào chữ huý của Cung Từ hoàng thái hậu. Bà nầy tên huý là Phạm Ngọc Trần, người làng Quần Lai, huyện Lội Dương (Thanh Hóa), vợ của Lê Thái Tổ, mẹ của Lê Thái Tông, tức bà nội của Lê Thánh Tông. Nhà vua cho rằng bà nội của mình tên Trần nên yết thị cho dân chúng khắp nước, nơi nào có họ “Trần” đều phải đổi chép thành chữ “Trình.” (8)
    Tại sao thời Lê Thái Tổ, rồi đến Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông, các vua không kỵ huý bà Cung Từ mà Lê Thánh Tông lại kỵ huý? Phải chăng sau những biến động của triều đình kể từ khi Lê Thái Tông bất đắc kỳ tử năm 1442, và Lê Nhân Tông bị Lê Nghi Dân lật đổ và bắt giết năm 1459, Lê Thánh Tông đã dùng cách kỵ huý (như Trần Thủ Độ trước đây) để tách ảnh hưởng của họ Trần, hoặc để ngầm đe dọa con cháu họ Trần đừng kiếm cách lợi dụng tình hình để phục hồi triều đại cũ.
    Dầu sao, Lê Thánh Tông chưa đi đến chỗ quyết liệt như Trần Thủ Độ, nghĩa là Lê Thánh Tông vẫn chưa tận diệt họ Trần, và để cho những người họ Trần giữ những chức quan nhỏ như trong đoàn sứ thần gởi sang nhà Minh năm nhâm ngọ (1462) có Trần Bàn, hoặc trong viện Khâm hình của triều đình lúc đó có Trần Phong, nhưng không thấy có nhân vật nào họ Trần giữ chức vụ quan trọng mãi đến thời kỳ loạn lạc sau khi Mạc Đăng Dung đảo chánh (1527) mới thấy vài nhân vật họ Trần xuất hiện trở lại trên sân khấu chính trị nước ta.

    3. Họ Mạc đổi thành nhiều họ
    Mạc Đăng Dung thuộc dòng dõi Mạc Đỉnh Chi, đỗ cử nhân võ và làm đô chỉ huy sứ năm 1508 (mậu thìn), nhờ thời thế dần dần được các vua nhà Lê tin dùng, thăng dần lên chức thái phó tiết chế các doanh quân thủy bộ, tước Nhân Quốc Công triều vua Lê Chiêu Tông (trị vì 1516-1522). Quyền hành càng ngày càng lớn, Mạc Đăng Dung lấn ép vua Lê và cuối cùng đảo chánh lật đổ vua Lê Cung Hoàng (trị vì 1522-1527), tự mình lên làm vua tức Mạc Thái Tổ (trị vì 1527-1530) lập ra nhà Mạc.
    Nhà Mạc cầm quyền từ thời Mạc Thái Tổ đến thời Mạc Mậu Hợp (trị vì 1562-1592), truyền được năm đời trong 65 năm. Trong lịch sử, họ Mạc bị lên án về các lỗi lầm sau đây:
    • Tổ chức đảo chánh lật đổ nhà Lê, không trung quân (1527).
    • Đầu hàng nhà Minh và cắt đất chia cho nhà Minh (1540).
    Trước hết, bất cứ một cuộc đảo chánh nào cũng đều có phản ứng cả. Từ Lê Hoàn, Trần Thủ Độ đến Lê Quý Ly, tất cả đều bị những cựu quan bảo thủ của triều trước, mất quyền lợi đứng lên phản đối. Mạc Đăng Dung cũng nằm trong trường hợp đó.
    Thứ đến, chúng ta cần chú ý: ai là người đã lên án gắt gao họ Mạc? Câu trả lời rất rõ ràng là các sử quan nhà Lê trung hưng là những người đầu tiên lên án họ Mạc. Việc nầy rất dễ hiểu vì nhà Mạc dẹp nhà Lê, nay trung hưng được thì nhà Lê kết tội nhà Mạc. Sau đó là các sử quan nhà Nguyễn vì nhà Nguyễn không muốn ai lật đổ ngôi báu của mình nên lên án tất cả những ai đã tổ chức đảo chánh cung đình.
    Nhưng “ở đời muôn sự của chung,” một triều đại (chính quyền) yếu đuối, kém khả năng cần được thay thế bằng một triều đại (chính quyền) khác hữu hiệu hơn để cai trị nước, đó là lẽ tự nhiên, nên việc đảo chánh của Mạc Đăng Dung không đáng bị lên án như các sách vở trước đây đã làm.
    Việc đầu hàng nhà Minh và cắt đất xin hàng cần được xét lại trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Sau khi nhà Lê mất ngôi, hai vị cựu thần nhà Lê là Trịnh Ngung và Trịnh Ngang chạy qua nhà Minh tố cáo hành động của Mạc Đăng Dung và xin nhà Minh đưa quân qua hỏi tội ho. Mạc năm 1529 (kỷ sửu). (9)
    Năm 1533 (quý tỵ), Nguyễn Kim tìm được con của Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh, lập lên làm vua là Lê Trang Tông (trị vì 1533-1648) trong lúc đang lưu vong tại Ai Lao. Lê Trang Tông sai Trịnh Duy Liễu cùng hơn mười người đi đường biển từ Chiêm Thành theo thuyền buôn Quảng Đông tới Trung Hoa xin thỉnh cầu nhà Minh xuất quân đánh nhà Mạc. Năm 1536 (bính thân), một lần nữa Lê Trang Tông sai Trịnh Viên yêu cầu nhà Minh đánh họ Mạc.
    Hành động của vua Lê, kêu gọi người nước ngoài về đánh nước mình, trong đó có ý kiến cố vấn của Nguyễn Kim, không bị một sử gia nào lên án. Việc làm nầy đưa đến kết quả cụ thể là nhà Minh cử Cừu Loan làm tổng đốc, Mao Bá Ôn làm tán lý quân vụ đem binh mã sang ải Nam Quan năm 1540. Ngược lại, trong thế yếu, muốn tránh một cuộc chiến mà mình nắm chắc phần thất bại, đồng thời dân Việt sẽ một lần nữa bị đặt dưới ách thống trị trực tiếp của ngoại nhân như thời Mộc Thạnh, Trương Phụ, Mạc Thái Tổ, lúc đó đã lên làm thái thượng hoàng, đành chấp nhận đầu hàng và chấp nhận hy sinh danh dự cá nhân, lên ải Nam Quan (Lạng Sơn) chịu nhục. Nhờ sự nhẫn nhục của Mạc Thái Tổ, nước ta trên danh nghĩa là lệ thuộc Trung Hoa, nhưng trong thực tế vẫn độc lập một phương, vua Mạc vẫn cai trị đất đai từ Lạng Sơn trở xuống, đâu có viên tướng Tàu nào bén mảng sang cai trị. Ai cũng bảo Mạc Đăng Dung đầu hàng nhà Minh vì quyền lợi gia đình họ Mạc, nhưng giả thiết, một giả thiết không bao giờ có thể quay lại được, Mạc Đăng Dung chống cự quân Minh như họ Hồ, nước ta bị tái đô hộ, thì nhân dân ta còn khổ biết bao nhiêu nữa. Đàng nầy, Mạc Đăng Dung một mình chịu nhục cho trăm họ bình yên. Người ta ưa ca tụng Hàn Tín khi nghèo khổ đã lòn trôn tên bán thịt chợ Hoài Âm (Trung Hoa) như là một gương nhẫn nhục đáng noi theo, nhưng chẳng một ai chịu chia xẻ với nỗi nhẫn nhục vĩ đại của Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung rất buồn tủi về sự kiện Nam Quan (Lạng Sơn) nên về nhà chưa được một năm, ông nhuốm bệnh từ trần năm 1541.
    Cuối cùng việc cắt đất nghe ra khá to lớn, nhưng đó chỉ là năm động của những sắc tộc ít người nằm ở vùng biên giới Hoa Việt: Ty Phù, Kim Lặc, Cổ Sậm, Liễu Cát, và La Phù thuộc châu Vĩnh An, ở Yên Quảng. Chúng ta cần chú ý là những sắc tộc ít người sinh sống trong các động dọc biên giới Hoa Việt không nhất định về theo chính quyền Trung Hoa hay Đại Việt, mà chỉ bên nào mạnh thì họ triều cống để được yên thân. Do đó, việc cắt đất nầy chỉ có tính cách giấy tờ chứ trên thực tế là bên nào mạnh họ theo.
    Trong khi đó, sau khi trở về Thăng Long, năm 1596 vua Lê Thế Tông (trị vì 1573-1599) cử người đem hình dạng hai quả ấn của nhà Mạc và vua Lê lên Nam Quan cho đại diện nhà Minh khám xét, nhưng quan nhà Minh không chịu, bắt vua Lê phải thân hành đến gặp. Vua Lê phải chấp hành, nhưng khi đến nơi đợi lâu quá không được gặp quan nhà Minh, vua Lê đành trở về, rối năm sau (1597) lên một lần nữa mới được hội kiến. (10) Sự kiện nầy chẳng khá gì hơn việc Mạc Đăng Dung lên Nam Quan năm 1540.
    Vì quá ham lên án nhà Mạc, sử sách lơ là những công trạng đáng nhớ của nhà Mạc. Sau khi Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng rồi chạy sang Trung Hoa. Trước khi từ trần năm 1594, đại tướng nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn để thư lại dặn vua Mạc Kính Cung: “...Họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Còn như dân ta là người vô tội, sao lại nỡ để cho dân mắc vào vòng mũi tên hòn đạn lâu mãi như vậy! Chúng ta nên lánh ở nước khác, cốt phải cẩn thận giữ gìn, đừng lại cố sức chiến đấu với họ nữa. Lại dứt khoát chớ có đón rước người Minh kéo sang nước ta để đến nỗi dân ta phải lần than khốn khổ...” (11)
    Đây không phải lời nói suông trong cảnh trà dư tửu hậu, nhưng đây là tâm huyết của một con người sắp nằm xuống trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất nước. Suốt trong lịch sử Việt Nam, chúng ta thường được nghe những lời nói của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, hào hùng như vó ngựa tổ tiên, nhưng ít khi được đọc những dặn dò như Mạc Ngọc Liễn, nhân bản, đầy tình tự dân tộc không khác gì lời ru êm ái trong những câu ca dao mộc mạc.
    Điểm quan trọng nhất là con cháu nhà Mạc đã không kêu nài van xin người Minh đem quan sang đánh nước ta giống như nhà Lê đã làm. Họ chỉ yêu cầu nhà Minh can thiệp cho họ về sinh sống đất Cao Bằng. Chính họ đã góp công phát triển Cao Bằng, tạo thế đoàn kết kinh thượng và biến Cao Bằng thành một vùng biên giới vững chắc để chống lại Trung Hoa. Công trạng nầy tuy không rực rỡ như đường về phương nam của chúa Nguyễn, nhưng sử sách cũng không thể quên tuyên dương họ Mạc.
    Khi Trịnh Tùng chiếm được Thăng Long, trung hưng nhà Lê (1593), con cháu họ Mạc tẩu tán khắp nước, một số lên Cao Bằng, một số chạy vào Thanh Hóa, Nghệ An ẩn trốn, và một số vào Nam theo chúa Nguyễn. Con cháu họ Mạc đổi ra rất nhiều họ khác nhau Sách Thế phả ghi rõ là con của Mạc Đăng Doanh, em của Mạc Kính Điển là Mạc Cảnh Huống vào Nam theo Nguyễn Hoàng, sau con là Mạc Cảnh Vinh đổi là Nguyễn Hữu Vinh. (12) Không những chỉ một họ Nguyễn, mà chắc chắn còn nhiều họ khác nữa Trước đây, những họ nầy không lên tiếng vì một mặt sợ các chính quyền quân chủ trả thù, và một mặt việc sử sách lên án triều đại nhà Mạc ít nhiều gây những ưu phiền cho con cháu họ nhà nầy. Hy vọng sẽ có một ngày nào đó, con cháu những họ nầy thấy rõ rằng nhà Mạc không đáng bị lên án như người ta đã làm xưa nay, bỏ qua những ưu phiền không đáng, sẽ lên tiếng để tìm về gốc gác ông bà mình.
    Qua ba cuộc đổi họ trên đây, lý do chính đưa đến việc đổi họ là do tiên tổ các họ nầy đã lên nắm chính quyền, lập triều đại, sau bị truất phế và bị nghi ngờ nên con cháu bị bắt buộc phải đổi họ. Ngược lại, trong lịch sử nước ta, có một dòng họ lớn từ thời Ngô Quyền lập quốc cho đến nay không thay đổi mà mỗi ngày một phát triển, hưng thịnh. Đó là họ Nguyễn Phúc ở Gia Miêu ngoại trang, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.

    4. Một họ lớn không thay đổi
    Theo Thế phả, “Đức Định Quốc Công huý là Nguyễn Bặc, thân phụ và thân mẫu của ngài không được rõ, ngài xem là thuỷ tổ của dòng họ Nguyễn Phúc.” (13)
    Nguyễn Bặc (924-979) là bạn chí thân từ thuở hàn vi và là cận thần của Đinh Bộ Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng (trị vì 968-979). Khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua, Nguyễn Bặc được phong Định Quốc Công, đứng đầu các công thần. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị ám sát, Nguyễn Bặc bắt giết ngay kẻ thích khách là Đỗ Thích, và tôn phò con của Đinh Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Tuệ. Lê Hoàn có ý làm phản nhà Đinh, Nguyễn Bặc chống đồi, cầm quân đánh Lê Hoàn, nhưng bị Lê Hoàn bắt giết.
    Theo sách Thế phả, tức sách gia phả của dòng họ nầy, từ thời Nguyễn Bặc cho đến ngày nay, thời nào họ Nguyễn ở Gia Miêu ngoại trang (Thanh Hóa) cũng đều có người giữ những địa vị cao trong các triều đại, và thường được phong tước công. Chỉ có một thay đổi nhỏ so với lúc ban đầu là họ nầy lót thêm chữ “Phúc” vào thế kỷ 16. Tương truyền rằng khi sắp sinh, vợ của Nguyễn Hoàng nằm mộng thấy thần nhân cho một tờ giấy viết đầy chữ “Phúc”. Có người đề nghị bà lấy chữ “Phúc” đặt tên cho con, thì bà trả lời rằng: “Nếu đặt tên cho con thì chỉ một người được hưởng phúc, chi bằng lấy chữ ‘Phúc’ đặt làm chữ lót thì mọi người đều được hưởng phúc.” Bà liền đặt tên con là Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635, cầm quyền 1613-1635). Từ đó, họ Nguyễn ở Gia Miêu ngoại trang đổi thành họ Nguyễn Phúc. (14)
    Dù có người nghĩ rằng các tác giả Thế phả đương nhiên tâng bốc tổ tiên mình, nhưng không ai có thể phủ nhận những khuôn mặt lớn trong quá trình lịch sử dân tộc như Nguyễn Bặc, Nguyễn Nộn (?-1229), Nguyễn Kim (1468-1545), Nguyễn Hoàng (1525-1613), Nguyễn Phúc Tần ( 1620-1687, cầm quyền 1648-1687)...
    Thời điểm cực thịnh của họ Nguyễn Phúc là việc lên ngôi năm 1802 của Nguyễn Phúc Ánh tức vua Gia Long (trị vì 1802-1819), đóng đô tại Phú Xuân, cai trị một đất nước rộng lớn nhất so với các triều đại trước, từ Lạng Sơn đến Cà Mau Các vua Nguyễn rất đông con nên ngoài việc lập Tôn nhân phủ (15) như các triều đại trước để quản lý người trong hoàng gia, vua Minh Mạng (trị vì 1820-1840) còn làm một bài đế hệ thi và mười bài phiên hệ làm chữ lót cho con cháu Nguyễn Phúc để phân định thứ bậc các hệ phái từ con cháu của Gia Long trở xuống Năm 1945, vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945) thoái vị tại Huế, chấm dứt chế độ quân chủ tại nước ta, nhưng họ Nguyễn Phúc, vốn rất đông người từ thời các vua Nguyễn, vẫn cứ phát triển vững vàng, và có nhiều nhân vật nổi tiếng trong khắp các lãnh vực chính trị, quân sự, văn hóa, học thuật, kinh tế, khoa học... chẳng những ở trong nước mà cả trên thế giới.

    CHÚ THÍCH:
    1. Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, gọi tắt là Cương mục, bản dịch của Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1957, tt. 448-449.
    2. Cương mục, bản dịch, tr. 456.
    3. Nguyệt san Làng Văn, Toronto, Canada, số 125, tháng 1-1995, tr. 17.
    4. Chỉ cần xem lịch sử danh nhân Trung Hoa, chúng ta thấy rất ít người họ Nguyễn; trong các từ điển danh nhân Việt Nam, họ Nguyễn rất nhiều. Ngày nay, mở danh bạ điện thoại, chúng ta thấy họ Nguyễn chiếm khoảng gần 50%.
    5. Thổ quan châu Ngọc Ma (Nghệ An), tên là Hồ Ông, tự xưng là cháu ba đời vua Trần Nghệ tông (trị vì 1370-1372). Cuối năm bính ngọ (1426), để đáp ứng ý muốn của người Minh trong các cuộc thương thuyết, Lê Lợi cho đón Hồ Ông về, đổi tên là Trần Cao, đặt lên làm vua, lấy niên hiệu là Thiên Khánh. (Cương mục, bản dịch tt 803-804).
    6. Cương mục, bản dịch tt. 864-865.
    7. Cương mục, bản dịch tr. 880.
    8. Cương mục, bản dịch tr. 1013.
    9. Cương mục, bản dịch tr. 1327.
    10. Cương mục, bản dịch tt. 1418-1419.
    11. Cương mục, bản dịch tr. 1411.
    12. Nguyễn Phúc tộc thế phả, Hội đồng trị sư. Nguyễn Phúc tộc, Nxb. Thuận Hóa 1995, tr. 126. Gọi tắt Thế phả.
    13. Thế phả, tr. 21.
    14. Thế phả, tr. 113. Chú ý: Chữ “Phúc” còn được đọc là “Phước.”
    15. Sau năm 1954, Tôn nhân phủ đổi thành Hội đồng Nguyễn Phúc tôc.

  4. #64
    Tham gia
    23-05-2005
    Bài viết
    1,135
    Like
    256
    Thanked 351 Times in 152 Posts
    Cho hỏi, có phải họ Huỳnh là chuyển từ họ Hoàng sang không a?

  5. #65
    Tham gia
    26-09-2003
    Location
    Tp Hồ Chí Minh
    Bài viết
    88
    Like
    0
    Thanked 13 Times in 10 Posts

    Hấp dẫn đây !

    Quote Được gửi bởi ba_by View Post
    Bác Huỳnh Tấn cho em hỏi tí,
    Cuốn ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ của bác scan hay bác down về? Nếu down về bác cho em xin link. Cảm ơn bác trước
    Bạn có thể đặt mua tại Nhà sách Sông Hương
    @Tào Íp: Bác vào Bàn tròn Tiếng Việt mà xem, Huỳnh-Hoàng thiên hạ bàn cũng khá nát rùi.

  6. #66
    Tham gia
    22-07-2005
    Bài viết
    9,146
    Like
    612
    Thanked 2,879 Times in 1,409 Posts
    Quote Được gửi bởi ips View Post
    Cho hỏi, có phải họ Huỳnh là chuyển từ họ Hoàng sang không a?
    Cụ Íp chắc mẻm đang thắc mắc sao bố là Huỳnh Kỳ Anh mà lại sinh ra con là Hoàng Phi Hùng đây

  7. #67
    Tham gia
    10-12-2004
    Bài viết
    2,771
    Like
    0
    Thanked 13 Times in 13 Posts
    Huỳnh=Hoàng
    Vũ=Võ
    .....
    Cha khai họ Võ, con khai họ Vũ ==> bình thường.
    Cái này là do cách đọc miền bắc, miền nam khác nhau thôi.
    Được sửa bởi tềthiên lúc 19:42 ngày 02-10-2007

  8. #68
    Tham gia
    13-03-2007
    Bài viết
    216
    Like
    0
    Thanked 2 Times in 1 Post
    Quote Được gửi bởi Huỳnh Tấn View Post
    Bạn có thể đặt mua tại Nhà sách Sông Hương
    @Tào Íp: Bác vào Bàn tròn Tiếng Việt mà xem, Huỳnh-Hoàng thiên hạ bàn cũng khá nát rùi.
    Cảm ơn bác Huỳnh Tấn đã giới thiệu trang web Nhà sách Sông Hương.

    Quote Được gửi bởi ba_by View Post
    Bác Huỳnh Tấn cho em hỏi tí,
    Cuốn ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ của bác scan hay bác down về? Nếu down về bác cho em xin link. Cảm ơn bác trước
    Cuốn ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ của tác giả Huình Tịnh Paulus Của là loại sách xưa, quý hiếm. Nhà sách chúng tôi chỉ scan lại để bạn đọc tham khảo, nghiên cứu (không bán). Bạn có thể xem tại 1 trong 2 địa chỉ sau:

    http://ebook.songhuong.com.vn/index....detail&id=2075 hoặc
    http://songhuong.com.vn/main.php?cid...eft=40,18&gr=6

    Quote Được gửi bởi The Old Man View Post
    Có ai chỉ giùm tôi chổ download cái tuổi thơ "Quốc Văn Giáo Khoa Thư" được không?
    Xin cám ơn trước.
    Sau khi đọc thông tin của bác, nhà sách Sông Hương đã "truy lùng" cuốn "Quốc Văn Giáo Khoa Thư", nhưng đến nay vẫn chưa thấy manh mối gì về cuốn sách đó. Lúc nào có sẽ scan đưa lên và thông tin đến bác. Chúc vui!

  9. #69
    Tham gia
    26-09-2003
    Location
    Tp Hồ Chí Minh
    Bài viết
    88
    Like
    0
    Thanked 13 Times in 10 Posts

    Hạnh phúc Tìm hiểu thêm về Đại Nam Quấc Âm Tự Vị

    PAULUS HUỲNH TỊNH CỦA BIÊN SOẠN
    PHO ÐẠI NAM QUỐC ÂM TỰ VỊ ÐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM

    Trần Văn Cảnh


    1.PAULUS HUỲNH TỊNH CỦA VÀ NHỮNG ÐÓNG GÓP VĂN HÓA CỦA ÔNG
    Huỳnh Tịnh Của là nguời công giáo, có tên thánh là Paulus, nên thuờng đuợc gọi là Paulus Của, hay Huỳnh Tịnh Paulus Của, hay Paulus Huỳnh tịnh Của. Ông sinh năm 1834 tại làng Phuớc Thọ, Huyện Ðất Ðỏ, tỉnh Bà Rịa, nay là Phuớc Tuy, Nam phần, và mất năm 1907. Ông có tên hiệu là Tịnh Trai.

    Ðuợc gởi đi du học truờng công giáo ở Pulo-Pénang, Mã Lai. Paulus Huỳnh Tịnh Của tinh thông cả Hán Văn và Pháp Văn. Năm 1861, ông đuợc bổ nhiệm Ðốc phủ sứ, làm Giám đốc ty phiên dịch văn án ở Soái phủ Sài Gòn. Sau này ông thay Trương Vĩnh Ký làm chủ bút tờ công báo quốc ngử Gia Ðịnh Báo trong một thời gian ngắn. Ngoài công việc của một viên chức chính phủ, ông còn luu tâm đến quốc văn, quốc ngữ.

    Ðuợc tiếp nhận ảnh huởng văn hoá Âu tây, Paulus Huỳnh Tịnh Của cùng chia sẻ một quan niệm với Trương Vĩnh Ký, theo đó, xã hội Việt Nam có khả năng và cần vận dụng các kiến thức và kinh nghiệm của học thuật Âu tây về các vấn đề khoa học, kỹ nghệ, kinh tế và chính trị, để canh tân, nhưng vẫn giữ gìn, đào sâu và phát triển văn hoá Ðông phương cổ truyền để duy trì bản chất và bảo tồn độc lập.

    Ông là một trong số ít nguời tây học đầu tiên truớc tác bằng chữ quốc ngữ, để truyền bá học thuật Tây phương, mà không quên phổ biến văn hoá Ðông phương cổ truyền. Sau và cùng với Trương Vĩnh Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của là nguời có công xây đắp rất nhiều cho nền văn chương quốc ngữ trong những buớc đầu, nhất là ở Nam Kỳ.
    Huỳnh Tịnh Của sáng tác khá nhiều. Theo ông CORDIER (1) thì Paulus Huỳnh Tịnh Của sáng tác cả thảy khoảng 17 tác phẩm. Có thể xếp chúng thành hai loại : loại biên khảo và loại phiên âm.
    Loại biên khảo có nội dung phổ biến kiến thức hoặc sưu tầm phóng tác các tác phẩm đời truớc. Ðó là những cuốn sau đây :
    1. Chuyện giải buồn, 2 tập, 112 truyện, in năm 1880 và 1885
    2. Maximes et proverbes, in năm 1882
    3. Gia lễ, in năm 1886
    4. Sách bác học so giải, in năm 1887
    5. Sách quan chế, in năm 1888
    6. Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, 2 cuốn, in năm 1895 và 1896
    7. Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn, in năm 1897
    8. Câu hát góp, in năm 1904.
    9. Ca trù thể cách, in năm 1907

    Loại phiên âm, chuyển sang quốc ngữ những chuyện nôm xưa của các tác gia đời truớc. Ðó là những cuốn sau đây :
    1. Quan âm diễn ca, in năm 1903
    2. Trần Sanh diễn ca, in năm 1905
    3. Chiêu Quân cống Hồ truyện, in năm 1906
    4. Bạch Viên, Tôn Khúc truyện, in năm 1906
    5. Văn Doanh diễn ca, in năm 1906
    6. Thoại Khanh, Châu Tuấn truyện, in năm 1906
    7. Thơ mẹ dạy con, in năm 1907
    8. Tống Tử Vuu truyện, in năm 1907

    Theo Phạm Thế Ngũ (2) thì đa số các sách trên đều thất truyền cả, chỉ còn tìm lại đuợc 3 cuốn là Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, Chuyện giải buồn và Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn.
    Tại Thư Viện Giáo Xứ Việt Nam Balê, chúng ta có được 2 tác phẩm là Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị và Chuyện giải buồn.

    Trong tất cả những tác phẩm ấy, tác phẩm đồ sộ nhất và qua đó Paulus Huỳnh Tịnh Của đóng góp rất nhiều cho việc xây dựng quốc văn mới là pho Ðại Nam Quốc Âm tự Vị. Ðây là pho Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị đầu tiên của Việt Nam , do người Việt Nam biên soạn. Việc làm này của Paulus Huỳnh Tịnh Của thực là quá sớm, quá táo bạo. Hơn ba chục năm sau ta mới thấy một hội văn học ngoài Bắc là hội Khai Trí tiến đức nghĩ đến tiếp tục công việc. Và cho tới nay kể cả về tự điển Việt Nam chúng ta vẫn chỉ có hai cuốn ấy thôi. (3)

    2.PHO ÐẠI NAM QUỐC ÂM TỰ VỊ ÐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM
    Sau đây, để trình bày về pho Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, tôi xin đuợc
    . giới thiệu sơ luợc về cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị
    . trích đọc vài chữ trong cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị
    . và ghi lại vài suy nghĩ vắn tắt về cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị.

    a.Giới thiệu sơ luợc về cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị
    Truớc nhất, về giới hạn việc làm của mình, Paulus Huỳnh Tịnh Của chủ trương làm một cuốn tự vị vắn gọn, chỉ kê liệt các tiếng và định nghĩa một cách vắn tắt, chứ không có chú giải, dẫn điển, dẫn tích. Ông viết : “Có kẻ hỏi tự điển, tự vị khác nhau thế nào ? Sao sách ta làm kêu là tự vị mà không gọi là tự điển ? .... Tự điển, tự vị khác nhau có một sự rộng hẹp. Tự điển phải có chú giải, mỗi chữ, mỗi tiếng đều phải dẫn điển, dẫn tích, nguyên là chữ sách nào, nguyên là lời ai nói, cả thảy đều phải có kinh truyện làm thầy ; chí như tự vị cũng là sách hội biên các thứ chữ, cùng các tiếng nói, song trong ấy thích chữ một, nghĩa một, mà không dẫn điển tích gì.” (4)

    Còn như nội dung của cuốn tự vị, thì ngay từ trang bìa, Paulus Huỳnh Tịnh Của đã ghi rõ ngay trong tên sách rằng : “Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị tham dụng chữ nho có giải nghĩa, có dẫn chứng, muợn 24 chữ cái phương tây làm chữ bộ.” (5). Cuốn sách gồm hai tập, tập 1, từ vần A đến hết vần L, in vào năm 1895 ; tập 2, từ vần M đến hết vần X, in vào năm 1896.

    Theo ấn bản mới nhất, do Nhà Xuất Bản Trẻ in vào năm 1998, cả hai tập là 1210 trang, tập 1 gồm 608 trang, tập 2 gồm 602 trang.
    Ðến việc thực hiện cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, Paulus Huỳnh Tịnh Của đã đuợc một nguời Pháp tên là A. LANDES giúp đỡ rất nhiều về ý kiến cũng như phương pháp. Ông này là một nhà Ðông phương học, có học chữ nho và từng làm Giám đốc Truờng Thông ngôn ở Sài Gòn từ năm 1885. Cũng chính A. LANDES là nguời, vào năm 1895, đang làm Ðổng lý Văn phòng cho Toàn Quyền LANESSAN, đã khuyên Paulus Huỳnh Tịnh Của xin Thống Ðốc Nam Kỳ xuất quỹ để xuất bản bộ tự vị này. Nhung công việc chính, vẫn chỉ do Paulus Huỳnh Tịnh Của trì chí thực hiện, như lời ông viết rằng “nhân khi rỗi rảnh, ta cứ việc làm theo tiếng ta, chữ ta, viết đi chép lại, ngày đêm khó nhọc, hơn bốn năm trời mới thành công việc.” (6).

    b.Trích đọc vài chữ trong cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị
    Bây giờ xin giới thiệu hai chữ đã đuợc Paulus Huỳnh Tịnh Của giải nghĩa trong cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, chữ ĂN và chữ THẬT (THIỆT, THỰC).

    Chữ ĂN, (7) chính là một chữ nôm chứ không phải là chữ hán, cho nên bên cạnh cách viết chữ quốc ngữ ĂN, về phía phải có chua chữ “n” nghia là chữ nôm và về phiá trái có vẽ hình chữ nôm.
    Nghĩa chữ đơn là “Nhai nuốt, huởng dùng”
    Ðuợc trình bày từ giữa trang 9 đến trang 12, qua hai cột sách mỗi trang, tất cả là năm cột sách, chữ ĂN, là chữ đơn và chữ chính, đã đuợc giải nghĩa qua 125 chữ ghép. Tất cả các chữ ghép này đều có thể luợm lặt từ ba nguồn gốc chính :
    . những chữ luợm lặt từ các áng văn nôm nổi tiếng như truyện Kiều, truyện Lục Vân Tiên, ... như chữ “ăn dứt,...”
    . những chữ luợm lặt từ ca dao tục ngữ như chữ “ăn ra, ăn hồ,...”
    . những chữ luợm lặt từ những từ ngữ thông dụng hàng ngày, như chữ “ăn mừng, ăn lời, ăn tết, ăn chay,...”

    Chữ THẬT (8) vì là gốc chữ hán, nên về phiá phải có chua chữ “c”,
    Nghiã chữ đơn là “(thiệt) chắc, hột”, nó đuợc giải nghĩa qua 34 chữ ghép.
    Chữ THIỆT (9) đuợc trình bày qua hai chữ khác nhau :
    . chữ THIỆT, gốc hán nôm, về phiá phải có chua chữ “c n”, nghĩa chữ đơn là “Luỡi ; dùng nôm thì là thâm tổn, bị lụy, thua sút, mất phần nhờ”, đuợc giải nghĩa qua 18 chữ ghép.
    . chữ THIỆT thứ hai, gốc chữ hán, về phiá phải có chua chữ “c”, nghia chữ đơn là “’(Thật) chắc”, đuợc giải nghĩa qua 16 chữ ghép.
    Chữ THỰC (10) đuợc trình bày qua ba chữ khác nhau :
    . Chữ THỰC, gốc chữ hán, về phiá phải có chua chữ “c”, nghia chữ đơn là “Ăn”, đuợc giải nghĩa qua 21 chữ ghép.
    . Chữ THỰC thứ hai, cũng gốc chữ hán, về phiá phải cũng có chua chữ “c”, nghĩa chữ đơn là “Trồng, vun trồng” đuợc giải nghĩa qua 1 chữ ghép, chữ “Hóa thực”.
    . Chữ THỰC thứ ba, cũng gốc chữ hán, về phiá phải cũng có chua chữ “c”, nghiã chữ đơn là “Ăn khuyết” đuợc giải nghĩa qua hai chữ ghép, là “Nhựt thực, Nguyệt thực”.

    c. Vài suy nghĩ vắn tắt về cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị.
    Qua sự trích đọc vài chữ trong cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị như vậy, ta thấy cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của Paulus Huỳnh Tịnh Của có những đặc điểm sau đây :

    1.Ngữ vựng phong phú. Qua tự ĂN, với 125 chữ ghép khác nhau, cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của Paulus Huỳnh Tịnh Của chứng tỏ một công lao tìm tòi và ghi chú công phu, và kho ngữ vựng nó chứa đựng thành ra rất phong phú.

    Nó bao gồm chẳng những các từ ngữ văn chương, chung cho cả ba miền đất nuớc, rút ra từ các áng văn chương bác học và bình dân.
    Mà nó còn ghi nhận ngôn ngữ bình dân, đặc biệt là những tiếng có màu sắc địa phương đuợc xử dụng nhiều ở miền Nam và Nam Trung.

    2.Cách giảng giải rõ rệt. Nó không chỉ vắn tắt giảng nghĩa, mà đôi khi còn trình bày nguồn gốc của chữ để cho nghĩa đuợc rõ hon, bằng cách trích thêm những câu tục ngữ, ca dao, những câu thơ Kiều, Lục Vân Tiên, ...

    3.Phân biệt chữ Hán Nôm. Sành cả chữ Pháp, chữ Hán lẫn chữ Nôm, Paulus Huỳnh Tịnh Của đã không dùng cách xếp loại theo tự loại, nhưng đã biết lấy sáng kiến để phân biệt các tự theo hai gốc văn tự là Hán Việt và Nôm. Sáng kiến này rất hợp với ngôn ngữ Viêt Nam. Nó giúp cho độc giả hiểu rõ và dùng đúng các từ hán việt đã và đang có. Nó cũng giúp cho các nhà ngữ học sáng tạo thêm những từ mới theo yêu cầu của công nghiệp và giáo dục của thế giới hiện đại.

    4.Phương pháp khoa học. Tra Ðai Nam Quốc Âm Tự Vị kỹ, nguời ta thấy tác giả có phương pháp làm việc rất là khoa học. Một đàng ông biết tuân thủ nguyên tắc ngôn ngữ thống nhất, một đàng ông cũng biết thích nghi áp dụng nguyên tắc biến hóa thực tiễn của ngôn ngữ.

    Tuân thủ nguyên tắc ngôn ngữ thống nhất, Paulus Huỳnh Tịnh Của biết lựa chọn các mục từ của mình. Trong những cặp từ đối xứng, như “bậc” và “bực”, “bệnh” và “bịnh”, “mầng” và “mừng”, tự vị chỉ ghi và giảng những mục từ chính “bậc”, “bệnh”, “mầng”. Còn các mục từ đuợc coi là phụ, là những cách phát âm riêng của địa phương, thì đều không đuợc giải nghĩa, mà được gởi đi coi mục từ chính. Vì vậy mà từ “bực” được gởi đi coi chữ “bậc”, “bịnh” được gởi đi coi chữ “bệnh”, “mừng” đuợc gởi đi coi chữ “mầng”.
    Áp dụng nguyên tắc biến hoá thực tiễn của ngôn ngữ, Paulus Huỳnh Tịnh Của biết ghi nhận những hình thức biến chuyển trong quá trình phát triển rất đa dạng của ngôn ngữ do các điều kiện không gian và thời gian lịch sử. Có lẽ đó là lý do khiến các từ “chánh” và “chính”, “nhất” và “nhứt”, “phúc” và “phuớc”, “thật”, “thiệt” và “thực”, mỗi từ đều đuợc ghi là một mục từ và giảng giải riêng.

    ***
    Ba nền văn học đã lần luợt xuất hiện tại Việt Nam : Văn học chữ hán, từ thế kỷ X đến XX, văn học chữ nôm, từ thế kỷ XIII đến XX, và văn học chữ quốc ngữ, từ thế kỷ XIX cho đến ngày nay, thành độc tôn. Văn học chữ quốc ngữ đã đuợc văn hoá công giáo giúp sức nhiều hơn cả.

    Chữ quốc ngữ đã đuợc các linh mục Âu châu sáng chế ra với sự cộng tác tích cực của các giáo hữu Việt Nam. Ba nguời đuợc biết đến nhiều hơn cả, trong những buớc dầu của văn học quốc ngữ là cố Alexandre de RHODES (1593-1660), ông Pétrus TRƯƠNG VĨNH KÝ (1837-1897) và ông Paulus HUỲNH TỊNH CỦA (1834-1907).

    Nhờ văn học quốc ngữ, tâm trạng văn học chữ hán với mặc cảm tự ty “Thuật nhi bất trác” truớc uy thế chữ nghĩa của Thánh Hiền đã dần dà lui vào dĩ vãng. Văn học chữ quốc ngữ phát triển thêm tinh thần độc lập quốc gia và khuyến khích mạnh mẽ việc sáng tác văn, thơ, truyện, ... của văn học chữ nôm.
    Khởi đầu, văn học chữ quốc ngữ đã đuợc phổ biến qua báo chí, “Gia định báo” (1865), ... “Nam phong tạp chí” (1917), ...Văn học chữ quốc ngữ đã xông xáo vào mọi lãnh vực : văn hóa, chính trị, khoa học, tôn giáo, xã hội, kinh tế... quốc nội, quốc ngoại, dân tộc, quốc gia, thế giới... đã vận dụng hết các thể loại : dịch thuật, biên khảo, sáng tác...và đã sáng tạo ra một nền văn xuôi mới, một nền thơ mới. Văn học chữ quốc ngữ đã và đang phát triển trên cả nuớc cũng như khắp năm châu lục địa, có một tính chất thống nhất dẫu đuợc xử dụng trong những hoàn cảnh rất khác biệt, theo đa văn hoá, khoa học, tân tiến, thế giới, để bảo trì và phát huy văn hoá bốn ngàn năm văn hiến.
    ---------------------------------
    1. CORDIER : Morceaux choisis d’Auteurs annamites ; Hanoi : 1932
    2. PHAM THẾ NGŨ : Việt Nam Văn Học sử giản uớc tân biên, tập 3, Văn học hiện đại 1862-1945 ; Cơ Sở xuất bản Ðại Nam : Ất Tỵ, ttr. 80- 85
    3. PHAM THẾ NGŨ, sđd, tr. 84
    4. HUỲNH TỊNH CỦA : Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị ; Sài Gòn : Nhà xuất bản Trẻ ; 1998, trang bìa sau
    5. HUỲNH TỊNH CỦA, sđd, trang tựa đầu sách
    6. HUỲNH TỊNH CỦA, sđd, lời giới thiệu của Bùi Ðức Tịnh
    7. HUỲNH TỊNH CỦA, sđd, ttr. 9-12
    8. HUỲNH TỊNH CỦA, sđd, ttr. 992-993
    9. HUỲNH TỊNH CỦA, sđd, ttr. 1010-1011
    10. HUỲNH TỊNH CỦA, sđd, ttr.1036-1037

  10. Thành viên Like bài viết này:


  11. #70
    Tham gia
    15-03-2007
    Bài viết
    21
    Like
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Cảm ơn bạn Huỳnh Tấn nhiều.

Trang 7 / 19 FirstFirst ... 24567891012 ... LastLast

Bookmarks

Quy định

  • Bạn không thể tạo chủ đề mới
  • Bạn không thể trả lời bài viết
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •