Hồ Xuân Hương sống vào thời Lê mạt Nguyễn sơ, người cùng thời với Nguyễn Du (1765-1820), Phạm Đình Hổ (tức Chiêu Hổ, 1768-1839). Hồ Xuân Hương học rộng tài cao, uyên thâm cả Nho, Lão, Phật, và đặc biệt có tài ứng đối, sử dụng điển tích tài tình. Nhiều bậc trí giả đương thời phải công nhận bà là người “Tài cao nhã phượng thế gian kinh”. Có tài liệu ghi rõ, đại thi hào Nguyễn Du từng so sánh bà với nàng Tiểu Thanh tài sắc lừng lẫy bên Trung Hoa. Thơ văn của bà dễ khiến người ta nghĩ đến chữ “dâm tục”, với nhiều ý tứ lẳng lơ, mỉa mai, táo bạo, phá cách, tinh nghịch nhưng sâu xa là nỗi lòng của một người phụ nữ có tài, có sắc, mang nhiều khát vọng sống; song chịu quá nhiều hẩm phận trong chế độ hà khắc cũ…
Nhiều tài liệu cho rằng, trước khi kết hôn với ông phủ Vĩnh Tường, bà Hồ Xuân Hương có làm lẽ ông Tổng Cóc một thời gian, hai người chung sống tại làng Tứ Xã, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ ngày nay. Chuyện này hoàn toàn có thể tin được:
Hồ Xuân Hương làm lẽ ông Tổng Cóc thì đúng rồi, nhưng việc bà khóc ông ấy là khóc người chết hay khóc đưa tang một cuộc tình trắc trở? Chàng Cóc là ai mà lại lấy được bà chúa thơ Nôm về tận miền trung du xa tít ấy - mà lại chỉ cho làm vợ lẽ?
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng.
Kết quả mà các nhà nghiên cứu đưa ra lập tức gây sửng sốt: Cụ Dương Văn Thâm, hơn 90 tuổi, hội viên kỳ cựu Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, một bậc túc nho trong vùng cũng đã dày công hoàn thành một công trình về “Chàng Cóc” và mối tình với bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, theo đó, chuyện về “cô con dâu đỏng đảnh” Xuân Hương vẫn được người trong làng kể vanh vách cho đến tận giờ phút này, dẫu rằng, dễ đến 200 năm đã trôi qua kể từ khi nữ sĩ về làm vợ Tổng Cóc (nếu giả thuyết này là sự thật). Điều lạ nữa là những lời kể của người làng về bà Xuân Hương rất thống nhất: không ưa gì cô con dâu lắm nết xấu: không biết cấy cày, chỉ quanh quẩn thơ văn nhảm nhí; dáng thanh yểu điệu chứ không “lưng ong đùi dế” như tiêu chí bà con vẫn hằng dùng để chọn con dâu.
Tổng Cóc làm cho bà cả một cái nhà thủy tạ để tiếp bạn thơ văn, nhưng mỗi lần Xuân Hương cho người làm món cá lên xơi thì nàng chỉ ăn khúc giữa còn bỏ đầu bỏ đuôi. Điều này khiến người làng quay ra nhiếc móc Xuân Hương là ăn tàn phá hại, nhà Tổng Cóc giàu thế đã ra mẽ gì, sẽ tán gia bại sản vì cái sự “õng ẹo” ấy thôi! Thậm chí có gã phù thủy còn xui Tổng Cóc kiểm tra xem mình lấy phải người hay lấy phải yêu tinh, bằng cách đợi khi Xuân Hương ngủ, dùng một tàu lá chuối tươi to úp lên người nàng. Nếu sáng ra tàu lá bị nát nhàu, thì vợ lẽ Tổng Cóc là người đàn bà chân chỉ hạt bột, chẳng qua vợ cả và đàn con của mụ nói xấu vu vạ cho nàng thôi.
Nhược bằng tàu lá sáng ra vẫn còn nguyên thì đích thị Xuân Hương là… yêu quái. Tổng Cóc thử. Và dĩ nhiên, cái người gặp cảnh làm lẽ như nàng thì làm sao mà ăn no ngủ kĩ đè nát được tàu lá chuối to. Thế là Tổng Cóc dần cũng nản lòng vì sự mâu thuẫn ngày càng lớn giữa tài danh nanh nọc Xuân Hương và giấm chua lửa nồng ghen ghét của mụ vợ cả. Sau này, khi Xuân Hương bỏ đi làm vợ ông phủ Vĩnh Tường trong khi nàng đang có thai ba tháng tuổi với Tổng Cóc.
Con của hai người cũng đã không sống được. Bài “Khóc Tổng Cóc” vì thế mà ai oán hơn, oán trách hơn, song cũng day dứt và nặng nghĩa tình hơn: “Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!”.
Bookmarks