PDA

View Full Version : Mật mã Da Vinci - Chuyện bên lề !



ThichNuDiuHien
22-05-2006, 16:13
DA VINCI CODE
Bài: Lữ Giang
Ảnh: TNDH

Trong bốn năm qua, cuốn tiểu thuyết “The Da Vinci Code” (Mật mã của Da Vinci) của Dan Brown được coi là thuộc loại “best seller” trên thế giới và đã gây ra rất nhiều tranh luận. Cuốn tiểu thuyết này được xuất bản vào tháng 3 năm 2003. Kể từ đó, nó đã được dịch sang 42 thứ tiếng và bán được trên 40 triệu bản. Một bản dịch tiếng Việt cũng đã được in tại Việt Nam (Tuy nhiên, bản dịch này bị chỉ trích là dịch ẩu và có nhiều thiếu sót) Sau đó, cuốn tiểu thuyết đã được đóng thành phim và sắp chiếu vào cuối tháng 5 tới đây. Tác giả đã hài lòng khi thấy cuốn The Da Vinci Code gây nhiều tranh luận. Tác phẩm này đã chứa đựng những gì mà gây nhiều phản ứng như vậy?

Bìa tiểu thuyết:
http://img177.imageshack.us/img177/8963/davinci9sb.jpg

Một vài Poster phim:
http://img163.imageshack.us/img163/4994/davincicodever81vn.jpg
:yes:
http://img177.imageshack.us/img177/9161/davincicodever22lq.jpg

CẢM HỨNG CỦA DAN BROWN
Dan Brown sinh ngày 22.6.1964 tại thành phố Exeter, tiểu bang New Hampshire, Hoa Kỳ. Cha là một giáo viên dạy toán và mẹ là một nhạc sĩ thường trình diễn thánh ca. Dan tốt nghiệp trung học năm 1982 tại Exeter Academy, một trường trung học dành cho con nhà giàu, nơi đó cha ông dạy toán và mẹ ông trình diễn thánh nhạc. Sau đó ông đến học tại Amherst College ở Massachusetts. Sau khi tốt nghiệp, ông đến Los Angeles làm việc như là một nhà sáng tác âm nhạc, rồi qua Seville, Tây Ban Nha, theo học ngành nghệ thuật. Không thành công với nghề nghiệp của mình, năm 1993 Dan trở về Exeter và dạy Anh văn ở trường cũ.

Dan Brown
http://img93.imageshack.us/img93/4952/danbrown1max3sf.jpg

Có lần, sau khi đọc truyện của Sidney Sheldon, Dan cao hứng tuyên bố với vợ rằng nếu ông viết tiểu thuyết thì sẽ viết hay hơn. Từ đó, vợ ông là bà Blythe, một sử gia về nghệ thuật, thường khuyến khích ông viết văn.
Dan Brown cho biết ý tưởng viết một cuốn sách về Leonardo Da Vinci đã chớm nở trong ông khi ông đang theo học ngành lịch sử nghệ thuật tại đại học của thành phố Seville, Tây Ban Nha. Tại đây ông được học về những bí ẩn trong những hoạ phẩm của các đại danh họa. Một hôm, khi quan sát kiệt tác “The Last Supper” (Bữa tiệc cuối cùng hay Bữa tiệc ly) của đại danh họa Leonardo da Vinci, mô tả cảnh Chúa Jesus đang ngồi dự tiệc với 12 môn đệ trong đêm trước ngày Ngài đi chịu tử nạn, Dan Brown phân tích nhiều bí ẩn trong bức ảnh này, nhất là hình ảnh của John (tiếng Việt là Gioan), một môn đệ trẻ đẹp ngồi cạnh Chúa Jesus. Ông cho rằng hình ảnh người trẻ đó nhất định không phải là một người đàn ông, mà là một người đàn bà, và ông nghĩ rằng đó là bà Mary Magdalene. Từ ý nghĩ đó, ông quyết định viết một cuốn tiểu thuyết có nhan đề là “The Da Vinci Code”, tức Mật mã của Da Vinci, dựa trên sự khám phá đó!
Trên trang Web của đài BBC ngày 16.5.2005, dưới đầu đề “Cuốn sách nổi tiếng nói gì về Chúa Giêsu”, đài này ghi rằng “cuốn Da Vinci Code lấy ý từ “mật mã” nhà khoa học vĩ đại Leonardo Da Vinci để lại trong bức tranh Mona Lisa...”. Nhưng điều này không đúng. Cuốn Da Vinci Code đã lấy ý từ “mật mã” của bức họa “The Last Supper”...

The Last Supper
http://img93.imageshack.us/img93/1773/leonardolastsupper6av.jpg

(Còn tiếp)

yuki_piyoko
22-05-2006, 16:51
Tiếp tục đi anh. Em đang xem . Muốn biết xem bí mật cái Da Vinci Code là gì ?

Arkain
22-05-2006, 17:11
Hehehe, tuy rằng tác phẩm da Vinci Code được xuất bản dưới loại Fiction (giả tưởng), khối người đọc xong cứ đinh ninh nó là thật rồi gân cổ lên mà bàn luận, rốt cuộc lão Dan Brown giàu to.

Sách thì gay cấn, Dan Brown rút tỉa chi tiết từ các cuốn sách khác, chắp lại với nhau, rồi tưởng tượng thêm này kia cho có bài có bản, nghe cứ như là thật, bán chạy như tôm tươi. Phim thì dở như hạch, độc giả trung thành nhất cũng buồn ngủ khi đi xem.

Bác nào đọc sách rồi thì download đoạn phim tài liệu "The Real Da Vinci Code" (http://www.torrentspy.com/torrent/186834/DOCUMENTARY_The_Real_Da_Vinci_Code) của BBC phanh phui những hư cấu trong quyển sách này. Vừa xem vừa cười.

ThichNuDiuHien
23-05-2006, 09:44
Như vậy cảm hứng của Dan Brown đã bắt nguồn từ bức họa “Last Supper” của đại danh họa Leonardo da Vinci và sự liên tưởng đến hình ảnh của bà Mary Magdalene trong Thánh Kinh.
Vậy chúng ta cần tìm hiểu qua hai nguồn cảm hứng này:
1.- Đại danh họa Leonardo da Vinci và kiệt tác “The Last Supper”:
Leonardo da Vinci sinh ngày 15.4.1452 tại Anchiano, gần Vinci, thuộc Cộng Hòa Florence ngày xưa, nay nằm trong nước Ý. Ông qua đời ngày 2.5.1519 tại Cloux (nay là Clos-Lucé) ở Pháp. Ông là một họa sĩ, một nhà vẽ đồ án, một nhà điêu khắc, một kiến trúc sư và là một kỹ sư có thiên tài. Ông để lại nhiều tác phẩm danh tiếng, nhất là hai bức danh họa kiệt tác “The Last Supper” (1498) và Mona Lisa (1506). Các tranh của ông được coi là chứa đựng nhiều ẩn ý.
Kiệt tác “The Last Supper” được khởi sự sáng tác năm 1495 dưới sự bảo trợ của Công Tước thành Milan là Ludovoco Sforza, nhưng phải mất 7 năm mới hoàn thành. Đây là tác phẩm mô tả lại “Bữa tiệc cuối cùng” (The Last Supper) của Chúa Jesus và 12 môn đệ được nói đến trong Phúc âm Thánh John, chương 13, khái lược như sau:
Trước lễ Vượt Qua, Chúa Jesus biết giờ của Ngài đã đến, giờ phải bỏ thế gian về với Đức Chúa Cha, nên trong một bữa ăn tối với 12 môn đệ, Người đứng dậy, lấy khăn thắt lưng và bưng chậu nước đi rửa chân cho từng môn đệ để dạy họ về tinh thần phục vụ và biết thương yêu nhau, sau đó Ngài nói những lời nhắn nhủ rất quan trọng và rất cảm động. Người cũng báo trước “có một người trong anh em sẽ nộp Thầy” để ám chỉ Judas Iscariost. Mọi người đều xao xuyến. Trong số các môn đệ, có một người được Chúa Jesus thương mến (đó là John, người trẻ nhất), đang ngồi ăn đầu tựa vào lòng Chúa, nên Simon Peter liền ra dấu cho John hỏi Thầy muốn nói về ai. Chúa Jesus liền trả lời: “Thầy chấm bánh đưa cho ai thì chính là kẻ ấy.”
Đây là cốt lõi câu chuyện phải được Leonardo da Vinci mô tả lại một cách sinh động trong tác phẩm “The Last Supper”. Muốn vậy, Leonardo da Vinci phải dùng hình ảnh những người sống để làm mẫu cho ông vẽ.
Vai trước tiên được chọn để vẽ là vai Chúa Jesus. Hàng trăm thanh niên trẻ đã được đưa đến cho Leonardo da Vinci ngắm nhìn. Ông đòi hỏi người đó phải là người có khuôn mặt và nhân cách của một người không bị ảnh hưởng bởi tội lỗi. Cuối cùng, một thanh niên 19 tuổi đã được chọn. Ông đã vẽ đi vẽ lại hình Chúa Jesus trong 6 tháng mới hoàn tất. Sâu đó, ông tiếp tục chọn và vẽ các môn đệ khác. Cuối cùng, ông mới vẽ Judas Iscariost, kẻ phản bội. Một tù nhân được ông chọn để đóng vai Judas. Người này phải ngồi trước ông 6 tháng, ông mới hoàn tất được hình vẽ của Judas!
Quả thật, khi nhìn hình John đang ngồi bên phải Chúa Jesus trong tranh, được Simon Peter lấy tay kéo nằm ngửa người ra để nói nhỏ nhờ hỏi Chúa Jesus ai là kẻ phản bội, chúng ta thấy John gióng một người đàn bà đang lả lơi hơn là một người đàn ông, đúng như Dan Brown đã nghĩ.

Judas Iscariost
http://img204.imageshack.us/img204/9092/judaa9gr.jpg

2.- Hình ảnh Mary Magdalene trong Thánh Kinh:
Có lẽ Phúc âm của Thánh Luke là cuốn phúc âm nói về hình ảnh nhân vật Mary Magdalene (tiếng Việt thường viết là Maria Madalêna) một cách rõ ràng nhất:
Đoạn 7: Đoạn này dài, xin tóm lược như sau: Khi Chúa Jesus đang ăn cơm ở nhà một người Pharisees, bỗng có một người phụ nữ ở trong thành là người tội lỗi (sinner), đến đứng đàng sau Chúa mà khóc, nước mắt rớt ướt chân Người. Cô ấy lấy tóc mà lau, rồi lấy dầu thơm mà xức. Một người Pharisees tên là Simon nghĩ bụng: Nếu ông này là ngôn sứ chắc phải biết người đang đụng đến mình là thứ nào: một người tội lỗi! Chúa Jesus liền nói với người Pharisees đó: Tôi vào nhà ông, nước lã ông cũng không đổ lên chân tôi, còn cô ấy lấy nước mắt tưới lên chân tôi. Dầu ô-liu ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn cô ấy lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: “Tội chị ấy rất nhiều, nhưng đã được tha...” Rồi Chúa nói với người phụ nữ: “Tội của cô đã được tha rồi.” Bây giờ những người đồng bàn liền hỏi: “Ông này là ai mà lại tha được tội?” Nhưng Chúa Jesus đã nói với người phụ nữ: “Lòng tin của cô đã cứu cô. Cô hãy đi bình an.” (Luk. 7: 36-50)
Đoạn 8: “Sau đó Đức Jesus rảo qua các thành phố, làng mạc và rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người có Nhóm 12 và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Mary gọi là Mary Magdalene, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Joanna, vợ ông Chuza quản lý của vua Herod, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp Đức Jesus và các môn đệ.” (Luk. 8: 1-3)
Trên đây là hai nguồn cảm hứng mà Dan Brown đã dựa vào đó để xây dựng hư cấu cho cuốn tiểu thuyết The Da Vinci Code.

Nữ thánh Mary Magdalene
http://img105.imageshack.us/img105/2378/marymag2gg.jpg

(Còn tiếp)
:cool2:

Cập nhật tin mới nhất về bộ phim:
http://img117.imageshack.us/img117/7153/bbca1bm.jpg

Cuong_DC9
23-05-2006, 12:27
Ấy thế mà trên 1 trang web, người ta lại dám viết: thành công lớn nhất của truyện-film này là cuối cùng đã làm cho nhiều người Mỹ biết được Mona Lisa tròn hay méo và ai là người đã bôi ra bức họa này!!!:w00t:

ThichNuDiuHien
23-05-2006, 15:01
Khi Chúa Jesus đang ăn cơm ở nhà một người Pharisees, bỗng có một người phụ nữ ở trong thành là người tội lỗi (sinner), đến đứng đàng sau Chúa mà khóc, nước mắt rớt ướt chân Người. Cô ấy lấy tóc mà lau, rồi lấy dầu thơm mà xức. Một người Pharisees tên là Simon nghĩ bụng: Nếu ông này là ngôn sứ chắc phải biết người đang đụng đến mình là thứ nào: một người tội lỗi! Chúa Jesus liền nói với người Pharisees đó: Tôi vào nhà ông, nước lã ông cũng không đổ lên chân tôi, còn cô ấy lấy nước mắt tưới lên chân tôi. Dầu ô-liu ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn cô ấy lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: “Tội chị ấy rất nhiều, nhưng đã được tha...” Rồi Chúa nói với người phụ nữ: “Tội của cô đã được tha rồi.” Bây giờ những người đồng bàn liền hỏi: “Ông này là ai mà lại tha được tội?” Nhưng Chúa Jesus đã nói với người phụ nữ: “Lòng tin của cô đã cứu cô. Cô hãy đi bình an.” (Luk. 7: 36-50)
http://img100.imageshack.us/img100/4900/matma37mm.jpg

HƯ CẤU ĐÃ ĐƯỢC XÂY DỰNG
Dựa trên những cảm hứng nói trên, Dan Brown muốn viết một câu truyện mô tả Chúa Jesus đã không bị đóng đinh trên thập giá, mà lại cưới bà Mary Magdalene và qua đời một cách bình thường. Chúa Jesus đã quyết định truyền ngôi cho bà. Chúa Giêsu thực sự là một nhân vật hoạt động cho nữ giới bình quyền, nhưng Giáo Hội đã che đậy đi tất cả những điều ấy bằng các thứ dối trá về thần tính của Người.
Với những ý nghĩ như thế, tác giả đã cố gắng đi tìm các sử liệu có thể giúp xây dựng một kết cấu câu chuyện nghe cho nó có vẻ hợp lý. Dan Brown đã tự nghỉ việc để miệt mài ngồi viết. Vợ ông, bà Blythe Brown, đã giúp ông rất nhiều trong việc tra cứu các tài liệu.
Dan Brown đã khôn khéo liên kết những nhân vật, những biến cố, những câu chuyện, những tổ chức... riêng rẻ có thật, lại thành một một tổng thể dính chặt vào nhau để tạo cho hư cấu của câu chuyện có vẽ như là một chuyện có thật một trăm phần trăm.
Cuối Da Vinci Code được viết theo loại chuyện trinh thám, mở đầu bằng một vụ án mạng. Trên trang Web của BBC ngày 16.5.2005, đài BBB có tóm lược câu chuyện này, nhưng không được đúng lắm, có lẽ vì người tóm lược không biết nhiều về những câu chuyện trong Kitô giáo và không nắm vũng các danh từ chuyên môn trong lãnh vực này.
Trong một chuyến kinh doanh tại Paris, đang đêm giáo sư Robert Langdon, nhà biểu tượng học Mỹ thuộc đại học Harvard, đã nhận được một cú điện thoại cho biết: người quản thủ già của Viện Bảo Tàng Louvre ở Paris đã bị ám sát ngay trong viện. Cảnh sát đã tìm thấy bên xác chết của ông một cuốn sổ để phá các mật mã.
Trong cuộc điều tra nhằm giải án vụ này, giáo sư Langdon đã hết sức bàng hoàng khi khám phá ra cuốn sổ nói trên đã ghi những “mật mã” trong các tác phẩm của đại danh họa Leonardo da Vinci, những “mật mã” mà ai cũng thấy hiện lên trong cả tác phẩm, nhưng đã được Leonardo da Vinci che giấu một cách rất khéo léo.
Vì thế, Giáo sư Langdon đã hợp tác với một chuyên viên phá mật mã đại tài người Pháp là bà Sophie Neveu để khám phá các bí mật. Bà này chính là cháu gái của người quản thủ thử viện bảo tàng vừa bị giết. Trong khi điều tra, họ khám phá ra rằng người quản thủ viện bảo tàng đó có dính líu tới một hội kín phát sinh từ Tu Viện Kín Sion (The Priory of Sion) cổ xưa. Theo Dan Brown, khi đến chiếm đóng thánh địa Jerasalem vào năm 1099, một số hiệp sĩ của Tòa Thánh đã khám phá ra một số tài liệu lịch sư quan trọng liên quan sự sống còn của Giáo Hội. Biết được chuyện này, Giáo Hội đã tìm cách tiêu diệt họ. Họ đã phải thành lập một hội kín để bảo toàn các tài liệu này. Trong những tài liệu đó có cả sách Phúc âm của Mary và Phúc âm của Phillip đã được tìm thấy ở thư viện Nag Hammadi và những cuộn giấy tìm được ở Biển Chết (Dead Sea Scrolls). Dan Brown cho rằng đây là những sách Phúc âm mà lúc tiên khởi đã bị Toà Thánh Vatican cho là ngụy thư và loại khỏi Thánh Kinh. Qua thời gian, hội kín này đã quy tụ nhiều nhà bác học lừng danh như Leonard da Vinci, Victor Hugo, Isaac Newton, Botticelli... Leonard da Vinci đã mã hóa những bí mật khám phá được vào tác phẩm The Last Supper của mình.
Dưới vai trò những con buôn thương mại hay chính trị, những nhà mối... giáo sư Langdon và Neveu đã thực hiện những cảnh truy lùng đầy kỳ thú và không biết sợ sệt, từ Paris qua London, để khám phá cho xong sự thật, vì sợ rằng nếu không khám phá được, sự thật lịch sử sẽ bị giấu kín mãi mãi.
Khi truy lùng sự thật lịch sử, Robert Langdon và Sophie Neveu còn bị một nhóm bí mật bám sát để tìm cách thanh toán, đó là nhóm Opus Dei, một “giáo phái” được Tòa Thánh Vatican công nhận!
Trong thực tế, Opus Dei (có nghĩa là “Kỳ công của Thiên Chúa”) là một tu hội công giáo được Giám mục Jose Maria Escriva de Balaguer y Albas thành lập tại Tây Ban Nha ngày 2.10.1928 và được Tòa Thánh phê chuẩn vào cuối năm 1950. Mục tiêu của tu hội này là quy tụ những giáo dân công giáo muốn thánh hóa đời sống của họ và dấn thân phục vụ tha nhân giữa dòng đời. Hiện nay tu hội có khoảng 77.000 hội viên và 1500 Linh mục linh hướng. Đây là một tổ chức thực hiện được nhiều công tác rất hữu ích và chẳng bao giờ làm những công việc như thế.
Trên đường truy lùng, hai người cũng phát hiện ra rằng người ông của Sophie Neveu vừa bị giết là người cuối cùng giữ bí mật về Grail, vốn được coi là bí mật lớn nhất của văn minh Thiên Chúa Giáo. Hội kín nói trên đã thề bảo vệ Grail mãi mãi, mặc dầu Giáo Hội đã bác bỏ “sự thật” về Grail, còn một nhóm trong Vatican tìm cách tiêu diệt bí mật đó.
Grail là gì? Grail - còn được gọi là Holy Grail - là cái chén thánh. Theo truyền thuyết Trung Cổ, chén này đã được Chúa Jesus dùng trong buổi tiệc cuối cùng (the Last Supper) và được ông Joseph Arimathé dùng để hứng những giọt máu cuối cùng của Chúa Jesus trên Thánh Giá, thường được hiểu là biểu tượng của tinh thần Kitô giáo tinh tuyền đã bị mất đi.
Nhưng Dan Brown đã lấy ý từ “mật mã” trong tranh “The Last Supper” của đại danh họa Leonardo da Vinci, cho rằng Grail không phải là gì khác mà chính là bí mật về cuộc hôn nhân giữa Chúa Jesus và Nữ Thánh Mary Magdalene.
Nhìn trang phục của Chúa Jesus và John mà Dan Brown cho là Mary Magdalene, Dan Brown thấy rằng trang phục của Jesus và Mary Magdalene đối xứng nhau về màu sắc: Chúa mặc áo trong màu đỏ, áo choàng màu xanh, còn Mary Magdalene mặc áo trong màu xanh, áo choàng đỏ. Hình dáng hai người ngồi kế nhau tạo thành một chữ M, tượng trưng cho Mary Magdalene. Dan Brown kết luận rằng Chúa Jesus và Mary Magdalene là một cặp vợ chồng.
http://img100.imageshack.us/img100/9213/matma0dk.jpg

http://img117.imageshack.us/img117/2170/matma14lf.jpg

Theo Dan Brown, Magdalene đã trốn tránh đến tận xứ Gaule (ngày nay thuộc Pháp) để bảo vệ huyết thống của Chúa Jesus. Giáo Hội từ khởi thuỷ đã dùng mọi thủ đoạn khám phá ra dòng dõi này để thủ tiêu, nhưng không thành công. Con trai của hai người đã đến Pháp và truyền lại dòng máu “Vương triều” đó cho một số người Châu Âu. Tòa Thánh, hay ít ra một số Giám mục trong tổ chức Opus Dei, đã tìm cách chiếm đoạt và che giấu những dấu tích của cặp Jesus và Mary Magdalene để lại.
Với những lập luận này, tác giả cho rằng từ trước đến nay Tòa Thánh Vatican luôn nhấn mạnh đến quyền lực của phái nam và triệt hạ uy tín của phái nữ, phỉ báng Nữ Thánh Mary Magdalene, mặc dầu Chúa Jesus muốn truyền ngôi lại cho bà chứ không phải cho Peter. Tác giả gợi ý rằng đã đến lúc ngôi vị thiêng liêng này phải được trao lại cho nữ giới trong kỷ nguyên của Nữ đang đến.
Cuốn truyện kết thúc với cảnh Robert Langdon và Sophie Neveu thoát mọi hiểm nguy và yêu nhau. Cô Sophie Neveu được mộ tả như là hậu duệ của Chúa Jesus và Thánh Mary Magdalene.

Một bức tranh khác về Mary Magdalene
http://img117.imageshack.us/img117/5665/matma25mr.jpg
:kiss:
NHỮNG PHẢN ỨNG TẤT NHIÊN
Trong 20 thế kỷ qua, những sách và tài liệu bổ báng Kitô Giáo như kiểu The Da Vinci Code nhiều vô số kể và nó còn xuất hiện dài dài, như "Jesus Did Not Die on the Cross but Jesus Did Ascend Into LightMary Magdalene", hay "Knights Templar Recover Jesus’ Truths", hay “The 21st Century Descendants of Jesus and Mary Magdalene Welcome You". v.v.
Giáo sư thần học Mark Shea ở Seatle nói rằng qua lịch sử, chúng ta thấy gần như mỗi thời đại đều có người muốn tạo ra một “Chúa Jesus thật” (!) theo họ tưởng tượng để phục vụ cho những mục tiêu mà họ muốn theo đuổi, chẳng hạn như: Trong giai đoạn phát triển doanh thương bừng rộ vào thập niên 1920, dân chúng được giới thiệu một “Chúa Jesus thật” là một thằng bé dán quảng cáo cho việc buôn bán. Vào thập niên 1939, Đảng Nazi của Đức nói đã khám phá ra một “Chúa Jesus thật” là một người Aryan chứ không phải người Do Thái, trong khi đó Cộng Sản lại tuyên truyền một “Chúa Jesus thật” là một kẻ chủ trương chủ nghĩa Maxít tiên khởi! Vào thập niên 1960, một “Chúa Jesus thật” này lại xuất hiện như là một bé bông hoa trong cuốn “Godspell” và là một kẻ hâm mộ những thứ nấm gây ảo giác, một con người dẫn giải tất cả mọi thị kiến và phép lạ một cách tuyệt vời. Vào thập niên 1970, một “Chúa Jesus thật” lại là một ‘siêu minh tinh’ theo các tay diktats của văn hóa nhạc rock, v.v.
Tuy nhiên, ít khi các giáo hội Kitô Giáo hay giáo dân có phản ứng mạnh vì ảnh hưởng của những thứ tài liệu nhảm nhí như thế thường không đáng kể. Nhưng với cuốn Da Vinci Code, người ta không thể coi thường được. Dan Brown đã khéo léo tạo được một hư cấu cho câu chuyện rất hấp dẫn để đưa những điều ông muốn nói vào lòng người. Cứ xem số sách đã bán được trong một thời gian ngắn thì biết rõ kết quả đó. Vì thế, các giáo hội Thiên Chúa Giáo đều phải lên tiếng. Hình thức phản ứng và mức độ phản ứng tùy thuộc từng tổ chức và cá nhân. Đa số lên tiếng để chận đứng những ảnh hưởng không tốt mà họ cho rằng cuốn tiểu thuyết và cuốn phim The Da Vinci Code có thể đem lại.
http://img131.imageshack.us/img131/6074/paper4nz.jpg

Trong một cuộc phỏng vấn kéo dài 30 phút tại trụ sở của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin ở Vatican, Đức Hồng Y Bertone đã lên tiếng khuyên tất cả mọi người tín hữu như sau: “Đừng mua quyển sách này, và cũng đừng đọc nó vì đó là một loại thức ăn hôi thối và bệnh hoạn. Có rất nhiều cuốn tiểu thuyết rất hay và đáng đọc, thế nhưng rủi thay, cuốn sách này thì không, vì nó chỉ gây ra sự nguy hại, sự nghi ngờ và những điều không hay khác nữa.” Đức Hồng Y cũng khuyến cáo “Các nhà sách Công Giáo nên loại bỏ ngay cuốn sách giật gân này ra khỏi kệ sách và lên án tác giả của cuốn sách, ông Dan Brown, một người Hoa Kỳ, về thái độ ‘ngạo mạn’ của ông ta".
Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ có lẽ đã thấy được rằng mặc dù đã có khuyến cáo đừng nên đọc hay xem những thứ đó, nhiều tín hữu vẫn sẽ tìm đọc hay xem để biết trong đó đã nói những gì, nên Tiểu Ban về Truyền Thông của Hội Đồng đã biên soạn và cho phổ biến tập sách có nhan đề “Đức Jesus đích thực” để phản bác những sai lầm mà cuốn tiểu thuyết ‘The Da Vinci Code” đã đưa ra. Tập sách cũng trình bày giáo huấn chân thực của Công Giáo về Chúa Jesus và thần tính của Người, về Tân Ước, về Giáo Hội, về chủ thuyết bất khả thần tri, về nữ giới... Tập này được trình bày dưới hình thức vấn đáp nên rất dễ đọc.
Một cuốn phim tài liệu dưới tựa đề “Jesus Decoded” (Phá mật mã Chúa Jesus) với nội dung gồm giáo huấn Công Giáo thực sự về Chúa Giêsu Kitô sẽ được trình chiếu trên các đài truyền hình NBC bắt đầu vào cuối tuần lễ thứ ba của tháng năm. Cuốn phim tài liệu này sẽ cho thấy những chi tiết chính xác về bản thân Chúa Jesus, về môn đệ của Người và việc hình thành các cuốn sách thành sổ bộ Tân Ước, cùng với ba thế kỷ đầu liên quan tới việc phát triển của lịch sử Giáo Hội. Cuốn phim còn có cả những cuộc phỏng vấn các học giả về nghệ thuật, lịch sử và Thánh Kinh... để phân biệt chân lý Công Giáo với tiểu thuyết trần tục.
Ngoài ra, một trang Web của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ có địa chỉ là www.jesusdecoded.com, vừa được thiết lập để hướng đẫn cho thấy cuốn tiểu thuyết và cuốn phim The Da Vinci Code chỉ là chuyện nhảm nhí. Trang Web cũng có một trang trả lời những câu hỏi của độc giả.
Một cuốn sách và DVD có tên là “Decode Da Vinci Code” (Giải mã Mật mã The Da Vinci) của cô Amy Welborn cũng đã được phổ biến để nói về những sai lầm trong cuốn The Da Vinci Code.
Về phía các giáo hội Tin Lành, tại Houston, Texas, nhiều nhà thờ Tin Lành đã mở các cuộc hội thảo về các đề tài “The Da Vinci Code, fiction or facts?” (Cuốn The Da Vinci Code, sự thật hay giả tưởng) hay “The Da Vinci Code, the anti-Christ book” (Da Vinci Code, cuốn sách chống Chuá Kitô?), v.v.
Trong một bài báo được đăng trên tờ Los Angeles Times hôm 11.5.2004, ký giả Stephanie Simon cho biết các giáo hội thuộc Giáo phái Tin Lành Evangelical khắp nước Hoa Kỳ đang mạnh mẽ phát động nỗ lực truyền giáo bằng cách đề cập tới truyện phim “The Da Vinci Code” mà nhiều người Kitô giáo khác cho là “phạm thánh”.
Mục sư Garry Poole ở Chicago đã lấy đề tài “Phim Da Vinci Code” quảng cáo và giảng về Chúa Jesus chân chính và sứ điệp của Ngài, vào Chúa nhật cuối tháng tư vừa qua, thu hút khoảng 22.000 người tham dự. Một mục sư ở Coast Hills, Aliso Viejo, đã phát ra miễn phí 325 máy iPods trong đó có bài giảng giải thích về Da Vinci Code cho các bạn trẻ. Tại thành phố Denver, Mục sư Gene Barron đưa ra chương trình 5 tuần hội thảo về “The Da Vinci Code”, v.v.

Chúa Jesus
http://img99.imageshack.us/img99/5041/jesus4em.gif
:eek:
(Còn tiếp)

ThichNuDiuHien
24-05-2006, 16:25
ẢNH HƯỞNG NHƯ THẾ NÀO?
Tờ USA Today số ra ngày 25.4.2006 cho biết theo cuộc thăm dò của tạp chí Catholic Digest, có 73% người công giáo nói rằng cuốn The Da Vinci Code không ảnh hưởng gì đến niềm tin của họ. Và có đến nhà thờ sau khi đọc cuốn sách này. Có 23% đã đọc toàn bộ hay một phần cuốn sách và 63% cho biết họ không đọc cuốn sách hoặc không thích đọc những cuốn sách giả tưởng (fiction) như thế. Và 91% cho rằng việc đọc một cuốn sách như thế chẳng có gì là sai cả.Đa số người Mỹ và người Âu châu nói chung, dù theo Thiên Chúa Giáo hay không theo, dù trẻ con hay người lớn, đều có một kiến thức khá cao, phân biệt được một cách dễ dàng đâu là sự thật (facts) và đâu là giả tưởng (fiction), họ lại đã biết nhiều về lịch sử Thiên Chúa Giáo, nên cuốn truyện và phim The Da Vinci Code khó ảnh hưởng đến suy nghĩ của họ. Sở dĩ họ tìm đọc hay xem là vì tính tò mò. Do đó, những nỗ lực giải thích của các giáo hội tại Hoa Kỳ như hiện nay có thể được coi là vừa đủ. Trái lại, cuốn sách và cuốn phim đó, nếu được phổ biến tại các dân tộc có trình độ văn hóa thấp, chắc chắn nó sẽ ảnh hưởng đến suy nghĩ của người đọc hay xem ngay. Trong trường hợp này, những sự hướng dẫn rất cần thiết.
Henri Lacordaire nói: “La réligion, fut-elle fausse, est un élément necessaire à la vie d’un people.” Tôn giáo, dù nhảm nhí chăng nữa, vẫn là một yếu tố cần thiết cho một dân tộc. Vì thế, không bao giờ nên bổ báng nó"
http://img109.imageshack.us/img109/1985/hamoddth3vq.jpg
Bài viết của Lữ Giang đến đây là kết thúc, phần hình ảnh do TNDH sưu tập sẽ còn tiếp tục, nội dung chủ yếu xoay quanh về bức họa Last Supper.
:wub:

hieept
24-05-2006, 22:52
thật là có nhiều thông tin bổ ích ghê, mình đang cố gắng đọc bản tiếng anh của nó đây, vì nghe bản tiếng việt dở lắm

NDThuan
24-05-2006, 23:47
chả có gì đáng nói............

thagnv
25-05-2006, 00:17
Hay quá, thông tin rất bổ ích, cám ơn bác TN! :)

ThichNuDiuHien
25-05-2006, 08:59
Leonardo da Vinci đang vẽ nàng Mona Lisa:
http://img155.imageshack.us/img155/3605/movielandwaxworksmla4ul.jpg

Một bức tranh "bí ẩn" khác của Leonardo da Vinci:
http://img58.imageshack.us/img58/6171/leodd5jc.jpg

...và còn khá nhiều tác phẩm hội họa của Leonardo da Vinci, có thể khiến các thế hệ hậu sinh khát khao giải mã:
http://img63.imageshack.us/img63/2146/leo25ya.jpg

The Last Supper là chủ đề “thách thức” tài năng của người nghệ sỹ:
http://img58.imageshack.us/img58/4244/cenacledalilg6xu.jpg
:wub:
http://img58.imageshack.us/img58/6506/lastsupper0wi.jpg
:wub:
http://img58.imageshack.us/img58/8589/lastsuppera7yy.jpg
:wub:
http://img127.imageshack.us/img127/6669/lastsupperb7td.jpg
:wub:
http://img118.imageshack.us/img118/5259/phudieudd1gu.jpg
:wub:

ThichNuDiuHien
26-05-2006, 13:49
Một vài tác phẩm mượn ý tưởng từ The Last Supper:
http://img63.imageshack.us/img63/3456/muon2kn.jpg
:)

PHỤC LĂN CÁC NHÀ KINH DOANH MỸ
http://img144.imageshack.us/img144/6996/new3lg.jpg
:rolleyes:

Tiasangtinhyeu
26-05-2006, 22:40
Đã cói thể loại game này rồi đó....hay lắm anh em a.

utbinh
28-05-2006, 05:48
TNDH ơi ,
Down như vậy là tới bến , utbinh rất thích phong cách trình diễn như bài nầy , có đấy đủ thứ chi tiết như vậy.
Anh có thể làm tiếp Film MISSION IMPOSSIBLE 3 do Tom Cruiser đóng không ? Nếu được thì utbinh cám ơn trước cho sưu tầm của utbinh.

ThichNuDiuHien
29-05-2006, 09:29
Đã cói thể loại game này rồi đó....hay lắm anh em a.
Vâng...03 CD = 18 xiền :lick:
Cũng phục lăn chiêng các nhà làm game và các điểm bán game VN:
http://img508.imageshack.us/img508/509/davincigame2bm.jpg
:yes: :yes: :yes:

ThichNuDiuHien
01-06-2006, 14:53
Mật mã Da Vinci : Chuỗi lập luận thuyết phục

Tác giả: Phạm Thúc Trương Lương


Cuốn tiểu thuyết "Mật mã Da Vinci" được NXB Văn hoá - Thông tin mua bản quyền và xuất bản một cách hợp pháp theo tinh thần của Công ước Berne. Tuy nhiên, đây lại là một sự cố bị coi là "thảm hoạ dịch thuật" gây nhiều tranh cãi. Sự quan tâm đặc biệt của độc giả dành cho cuốn sách này cũng không có gì là khó hiểu khi đây được coi là một tiểu thuyết bán chạy nhất thế giới với nội dung hấp dẫn, giải mã nhiều bí ẩn


Khác với bài viết của Lữ Giang - mang tính tổng thuật phản ánh các luồng dư luận..., tác giả Phạm Thúc Trương Lương đi sâu vào phân tích những giả thuyết về Chúa Giê Su do Dan Brown đặt ra trong cuốn The Da Vinci Code

1/Một giả thuyết gây sốc
“Hầu hết mọi điều cha chúng ta dạy chúng ta về chúa Ki-tô đều sai cả”. Sir Leigh Teabing, nhân vật của tiểu thuyết trinh thám “Mật mã Da Vinci, đã khẳng định như vậy.
Đó cũng chính là tuyên ngôn của Dan Brown, tác giả của cuốn tiểu thuyết. Với những tín đồ Cơ đốc giáo, câu nói trên nhẹ nhất là một sự báng bổ, còn nặng nhất thì có thể là một trái bom tấn với sức công phá khủng khiếp giáng thẳng vào boongke đức tin của họ. Nó cũng giống như vào một ngày đẹp trời nào đó, bố mẹ của bạn bỗng tiết lộ cho bạn biết rằng bạn chỉ là con nuôi mà thôi.
Nói một cách cô đọng, Dan Brown đưa ra và chứng minh các luận điểm sau:
• Jesus không phải là Chúa, ông vốn là một con người như tất cả chúng ta.
• Jesus đã kết hôn với Mary Magdalene, một tông đồ của ông.
• Bà lẽ ra đã được tôn thờ như một nữ Chúa.
• Bà đã có thai với Jesus và sinh ra một con gái.
Người con gái này đã khai sinh ra một dòng họ danh giá mà hậu duệ của nó hiện vẫn còn tồn tại tại châu Âu.
• Kinh thánh được một hoàng đế La Mã ngoại đạo (Constantine) chắp ghép lại.
• Jesus được xem như một con người chứ không phải là một đức Chúa cho tới tận thế kỷ thứ Tư sau công nguyên, khi ông được hoàng đế Constantine thần thánh hóa thông qua biểu quyết.
• Các sách phúc âm đã được biên tập lại để hậu thuẫn cho các tuyên bố của đạo Cơ đốc sau này.
• Một hội kín có tên là Tu viện Sion (Priory of Sion) vẫn tiếp tục tôn thờ Mary Magdalene như một nữ Chúa và cố gắng để sự thật không bị mất đi.
• Nhà thờ Công giáo La Mã nhận thức được tất cả chuyện này và đã đấu tranh trong suốt nhiều thế kỷ để bưng bít sự thật. Để làm được điều đó nhà thờ không ngần ngại sát hại những người có liên quan.
• Nhà thờ Công giáo La Mã sẵn sàng và thường tiến hành ám sát những hậu duệ của Chúa Ki-tô để ngăn không cho dòng giống của ông sinh sôi.
2/Truyền thuyết về chiếc Chén Thánh
Từ Chén Thánh (Holy Grail hay Chalice) có xuất xứ một từ tiếng Pháp trung cổ là Sangraal. Theo cách lý giải thông thường, Sangraal hợp thành từ hai từ San (Thánh) và Graal (Chén). Chén Thánh ám chỉ cái ly mà chúa Jesus đã dùng để uống rượu vang trong bữa tối cuối cùng với các tông đồ trước khi người bị Judas Iscariot chỉ điểm và rơi vào tay các thầy thượng tế Do thái. Khi Chúa bị đóng đinh câu rút, Joseph xứ Arimathea cũng dùng chính cái ly đó để hứng dòng máu của Chúa. Vì những lý do trên, cái ly nhỏ bình thường đã trở nên một thánh tích vô cùng thiêng liêng đối với những tín đồ Cơ đốc giáo.
Tuy nhiên, Dan Brown cho rằng có thể hiểu Sangraal theo một nghĩa khác nữa. Ông chiết tự Sangraal thành hai từ Sang (Máu) và Raal (Hoàng gia). Sangraal vì thế không chỉ là Chén Thánh mà còn là Dòng máu Hoàng tộc. Nó không ám chỉ một một vật chứa theo nghĩa đen như kiểu cái ly mà mang hàm ý sâu xa hơn, đó là ám chỉ một người phụ nữ đã mang trong mình giọt máu hoàng tộc, giọt máu của chúa Jesus, người vốn là dòng dõi của vua David và lúc sinh thời vẫn tự xưng mình là vua dân Do thái.

3/Bức tranh “Bữa tối Cuối cùng” của Leonardo Da Vinci
“Bữa tối cuối cùng” là một motif tôn giáo tương đối điển hình và vì thế được nhiều hoạ sĩ sử dụng cho việc sáng tác. Trong tranh, các hoạ sĩ thường vẽ chúa Jesus ngồi giữa 12 vị tông đồ quanh một chiếc bàn dài. Tác phẩm “Bữa tối cuối cùng” của Leonardo Da Vinci cũng có một bối cảnh tương tự. Dan Brown đã có những phát hiện rất lý thú khi khảo sát bức tranh này. Để giúp minh hoạ rõ hơn lập luận của Dan Brown, ngoài hoạ phẩm của Da Vinci, tôi (Phạm Thúc Trương Lương) sẽ sử dụng thêm ở đây một bức tranh khác cùng chủ đề của hoạ sĩ Ý Jacopo Bassano.

http://img95.imageshack.us/img95/8288/bassano4qc.jpg
"Bữa tối cuối cùng" -- Jacopo Bassano
Trong bức tranh của Bassano, chúng ta thấy có một cái ly duy nhất đặt trên bàn. Rất có thể đó là chiếc Chén Thánh mà các sử liệu Thiên chúa giáo đề cập. Còn quan sát bức tranh của Da Vinci, ta sẽ thấy chẳng có cái ly có chân đế nào cả. Ô hay, chẳng lẽ một hoạ sĩ nổi tiếng như ông lại có thể phạm một thiếu sót sơ đẳng như vậy (Da Vinci đã vẽ bức bích hoạ có kích thước 460x880 cm này trên tường phòng ăn của nhà tu kín Santa Maria delle Grazie tại Milan trong suốt 4 năm). Theo Dan Brown điều đó chỉ có thể phản ánh một điều là với Da Vinci, Chén Thánh không phải là một cái ly.
Trong bức tranh của Bassano, chúng ta thấy Chúa đang vuốt tóc John the Evangelist, vị tông đồ ít tuổi nhất. Vẻ bề ngoài và tư thế ngồi ngả ngốn của Thánh John cho thấy lúc đó ngài mới chỉ là một thiếu niên. Nhưng dù sao thì nét mặt của ngài vẫn đầy nam tính. Hai bắp tay của ngài nổi rõ các múi cơ và đôi bàn chân trần thô kệch thò ra dưới gầm bàn thì thực sự là giống với cặp chân của một cầu thủ bóng đá. Còn bây giờ hãy nhìn người ngồi ở vị trí tương tự trên hoạ phẩm của Da Vinci, tức là ngồi bên tay phải Chúa. John the Evangelist đó chăng? Cũng trẻ, cũng không râu nhưng...trời ơi, hình như đó là một phụ nữ. Hãy nhìn vẻ mặt mặt đoan trang và e lệ, hãy nhìn mái tóc hung mượt mà, hãy nhìn nước da trắng mịn như sứ và đôi bàn tay thanh tú đan vào nhau trong một tư thế thể hiện rất nhiều nữ tính. Da Vinci đã vẽ một phụ nữ, không nghi ngờ gì nữa. Dan Brown cho biết rằng không chỉ riêng ở bức tranh của Da Vinci mà cả một số tác phẩm khác cùng chủ đề (ví dụ tranh của Jean Fouquet hay Albrecht Duerer) cũng thể hiện một nhân vật dường như là phụ nữ ngồi tại vị trí của Thánh John. Theo Dan Brown nhân vật đó là Mary Magdalene. Vậy quan hệ giữa Jesus và Mary Magdalene là như thế nào mà bà lại xuất hiện trong bữa ăn tối định mệnh này? Chúng ta hãy nghe Dan Brown lý giải tiếp.
Những mật mã khác mà Da Vinci đã khéo léo cài vào bức tranh cho thấy Mary Magdalene và Chúa Jesus là một cặp, đúng hơn là một cặp vợ chồng. Vị trí ngồi của hai người nằm ở chính giữa bức tranh, và tư thế ngồi của họ đối xứng gương với nhau. Còn nữa, mầu sắc quần áo của Mary Magdalene và của Jesus là nghịch đảo của nhau. Jesus mặc áo trong màu đỏ và áo choàng ngoài mầu xanh da trời; Mary Magdalene thì mặc áo trong xanh da trời và áo choàng mầu đỏ. Rất phù hợp với sự hòa hợp âm dương.
Tư thế ngồi chạm hông vào nhau trong khi ngả người ra hai phía đối diện của Jesus và Mary Magdalene còn gợi lên hai hình ảnh nữa. Khoảng trống giữa hai người tạo thành một dấu hiệu hình chữ V nằm tại tiêu điểm của bức tranh. Đó là chính là biểu tượng cổ tượng trưng cho Chén Thánh và đồng thời cũng tượng trưng cho nữ giới (hình dáng tử cung của phụ nữ). Còn nếu xét cả khoảng trống hình chữ V và cơ thể hai người thì ta sẽ có một dấu hiệu hình chữ M. Rất có thể đó là chữ cái mở đầu của từ Matrimonio (hôn nhân) hay Mary Magdalene.
Tóm lại dường như thông điệp mà Da Vinci gửi gắm qua bức tranh của mình là theo ông Chén Thánh không phải là một đồ vật. Chén Thánh ám chỉ một người phụ nữ và người đó là Mary Magdalene.

4/Mary Magdalene
http://img395.imageshack.us/img395/6480/ivanov3a1vq.jpg
Tác phẩm The Appearance of Christ to Mary Magdalene.
Của Alexander Ivanov.

Trong kinh Tân ước, Mary Magdalene được nhắc tới 12 lần. Bà được Jesus xua đuổi tà ma ra khỏi cơ thể (Luke 8:2), có mặt tại nơi Chúa bị đóng đinh câu rút và sau đó lại xuất hiện tại cửa hang đá nơi cất giữ thi thể của Chúa vào thời điểm Chúa phục sinh. Chính bà là người đã được Chúa truyền mang tin lành về cho các thánh tông đồ.

Nhà thờ Cơ đốc giáo không có sự nhất quán trong cách nhận định về bà. Một mặt bà được phong nữ thánh, mặt khác giáo hoàng Gregory lại mô tả bà là một phụ nữ không đứng đắn, là gái điếm hoặc một phụ nữ phạm tội thông dâm, trước khi cải tà quy chính. Sự định danh này cho đến nay vẫn còn gây tranh cãi.

Theo Dan Brown, nhà thờ đã cố tình bôi nhọ hình ảnh của Mary Magdalene để hạ thấp vai trò của bà. Trên thực tế, Mary Magdalene là hậu duệ của hoàng tộc chi tộc Benjamin, một trong các chi tộc lớn của Israel. Bà là vợ của Chúa Jesus và là người lẽ ra đã trở thành người kế vị Chúa trong vai trò là người đứng đầu giáo phái do ông sáng lập. Chúa đã chọn bà, chứ không phải là thánh Peter, cho chức vị này.

Dan Brown củng cố lập luận của mình bằng các sách Phúc âm theo thuyết ngộ đạo (Gnostic Gospel) mà ông cho là những ghi chép sớm nhất về chúa Ki-tô, thậm chí sớm hơn cả Kinh Tân ước. Các sách phúc âm này dường như bị thất truyền cho đến khi nguyên bản của chúng được tìm thấy lại Nag Hammadi (Ai cập) vào năm 1945. Nội dung của chúng không tương đồng với các Phúc âm trong Kinh thánh. Hai Phúc âm mà ông trích dẫn là của Philip và của chính Mary Magdalene.

Phúc âm của Philip viết: “Và người đồng hành với Đấng Cứu thế là Mary Magdalene. Đức Ki-tô yêu bà nhiều hơn tất cả các tông đồ khác và người thường hôn lên môi bà. Những tông đồ còn lại cảm thấy khó chịu bởi điều đó và bày tỏ sự không chấp thuận. Họ nói với Chúa, ‘Tại sao Thầy lại yêu nàng hơn hết thảy chúng con?’” Theo Brown, trong tiếng Ai-cập cổ (Coptic), từ người đồng hành được dùng với nghĩa là vị hôn thê. Còn Phúc âm của Mary Magdalene thì viết: “Và Peter nói, ‘Liệu Đấng Cứu thế có thực sự nói chuyện với một người đàn bà mà chúng ta không biết không? Liệu chúng ta có buộc phải lắng nghe người đó không? Liệu Chúa có coi người đó hơn chúng ta không?’. Và Levi trả lời: ‘Peter, sao anh lúc nào cũng tỏ ra nóng nảy. Giờ đây tôi thấy anh đang kình địch với người đàn bà này như thể là một đối thủ vậy. Nếu Đấng Cứu thế đề cao nàng, liệu rằng anh có thể chối bỏ nàng sao? Hẳn nhiên Đấng Cứu thế hiểu nàng rất rõ. Đó là nguyên nhân tại sao mà Người lại yêu nàng hơn yêu chúng ta.’”. Lý do khiến Peter ghen với Mary Magdalene như vậy, theo Brown, là vì Jesus đã dự định giao phó sứ mệnh điều hành giáo phái cho bà và đã có những chỉ dẫn riêng cho bà về chuyện đó mà Peter không nắm được.
Có vẻ như Da Vinci đã thể hiện sự tranh giành quyền lực ngấm ngầm của Peter với Mary Magdalene trong bức tranh “Bữa tối cuối cùng” khi mà nhân vật Peter vươn người về phía Mary và làm động tác “cắt cổ” bằng bàn tay của mình.
http://img395.imageshack.us/img395/624/bantay1nq.jpg
Bàn tay của Thánh Peter

Tại thời điểm Jesus bị đóng đinh câu rút, Mary Magdalene đang mang trong mình đứa con của Jesus. Để đảm bảo an toàn cho đứa con chưa sinh ra của Người, bà buộc phải rời khỏi Đất Thánh. Bà đã bí mật du hành tới xứ Gaul (nay thuộc tỉnh Provence nước Pháp), ẩn mình trong một cộng đồng Do thái tại đó và sinh hạ một con gái đặt tên là Sarah. Hậu duệ của Jesus cứ thế âm thầm sinh sôi nảy nở cho tới thế kỷ thứ Năm, khi họ thông hôn với hoàng tộc Pháp và hình thành nên triều đại Merovingie, một vương triều nổi tiếng của nước Pháp cổ đại. Chính những thành viên của Merovingie đã tạo lập nên thành phố Paris. Giáo hội Vatican tìm cách trừ khử dòng tộc này và đã suýt thành công khi tiến hành ám sát vua Dagobert vào thế kỷ thứ VII. Thật may mắn là con trai của Dagobert, tên là Sigisbert, đã bí mật thoát được khỏi vụ tấn công và vì thế dòng họ vẫn duy trì được nòi giống. Trong số các hậu duệ về sau có vua Godefroi de Bouillon, người sáng lập ra hội kín Tu viện Sion. Theo Brown, dấu vết của dòng họ Merovingie còn lưu lại đến tận ngày nay tại Châu Âu dưới những cái tên khác như Saint Clair hay Plantard.

5/ Hội kín Tu viện Sion
http://img67.imageshack.us/img67/2055/ge2tp.jpg
Godefroi de Bouillon

Tu viện Sion được Godefroi de Bouillon sáng lập năm 1099 tại Jerusalem, ngay sau khi thành phố này thất thủ trước đội quân của ông trong cuộc thập tự chinh. Vua Godefroi được coi là có nắm giữ một bí mật hết sức quan trọng lưu truyền trong gia đình ông kể từ lúc Chúa còn sinh thời. Sợ rằng bí mật này sẽ bị mất đi sau khi mình chết, vua Godefroi đã dùng hội kín Tu viện Sion như một tổ chức để bảo vệ và duy trì nó từ thế hệ này sang thế hệ khác và sẽ công bố vào một thời điểm thích hợp. Trong những năm ở Jerusalem, Tu viện Sion đã phát hiện ra nơi cất giữ những văn bản được chôn dấu dưới đống đổ nát của đền thờ vua Herod, kiến trúc được xây dựng trên nền của đền thờ vua Solomon. Những văn bản này có thể chứng thực cho bí mật truyền khẩu của Godefroi, một bí mật có thể gây chấn động lớn đến mức Nhà thờ sẽ không từ bất cứ một thủ đoạn nào để đoạt được chúng.

Tu viện Sion đã thành lập một đội quân riêng với tên gọi là dòng Các Hiệp sĩ Thánh chiến (Knights Templar). Sứ mệnh được công bố của họ là bảo vệ những người hành hương đến Đất Thánh còn trên thực tế mục đích của đội quân này là tìm kiếm những văn bản trong đống phế tích. Không ai biết các Hiệp sĩ Thánh chiến đã tìm thấy những gì nhưng có một điều mà giới học giả đều đồng ý với nhau là những thứ họ tìm được đã mang lại sự giầu có và quyền lực ngoài sức tưởng tượng cho đội quân này. Không rõ do dòng Hiệp sĩ Thánh chiến đe doạ tống tiền Vatican hay do Nhà thờ muốn mua lấy sự im lặng của họ, chỉ biết rằng giáo hoàng Innocent II lúc đó đã ngay lập tức công bố một sắc luật ban cho dòng Hiệp sĩ Thánh chiến một quyền lực không hạn chế và tuyên bố “họ chính là luật pháp”. Họ hoạt động hoàn toàn độc lập và không bị bất cứ giáo phái hoặc vua chúa nào chi phối. Về danh chính ngôn thuận thì sứ mệnh của họ là không được trả công và bản thân các hiệp sĩ cũng đã tuyên thệ chấp nhận cuộc đời bần hàn nhưng đội quân này lại sở hữu rất nhiều tài sản và đất đai trên khắp Châu Âu.

Tới đầu thế kỷ XIV, khi quyền lực của dòng Hiệp sĩ Thánh chiến đã trở nên quá lớn, giáo hoàng Clement V bèn cùng với vua Pháp Philippe IV (Philippe Tuấn tú) lên kế hoạch triệt hạ đội quân này, thu hồi các kho tàng của họ và bởi vậy có thể giành quyền kiểm soát các bí mật có liên quan đến Vatican. Sắc lệnh của giáo hoàng được gắn xi kín và gửi cho những đội quân mà Toà thánh kiểm soát trên toàn lục địa. Đúng ngày Thứ Sáu ngày 13 tháng Mười năm 1307, các mệnh lệnh này được mở cùng một lúc. Clement V nhân danh Chúa ra lệnh phải bắt tất cả các Hiệp sĩ Thánh chiến, tra tấn họ cho đến lúc họ phải cung xưng những tội mình đã phạm với Chúa, những cáo buộc mà theo Dan Brown chỉ là nguỵ tạo. Mặc dù đã có một sự hiệp đồng vô cùng chính xác về mặt thời gian, mặc dù phần lớn các Hiệp sĩ Thánh chiến đều bị bắt, bị tra tấn và sau đó bị thiêu sống nhưng các văn bản bí mật mà Vatican muốn chiếm đoạt lại lọt lưới. Tu viện Sion, tổ chức lãnh đạo đứng sau Những Hiệp sĩ Thánh chiến đã mang được những văn bản này rời khỏi Paris lên một con tầu biển tại La Rochelle. Ngoài tổ chức này, không ai rõ chúng được chuyển đi cất giữ ở đâu. Nhiều người tin rằng vị trí cất dấu đã được dịch chuyển một số lần trong suốt 700 năm qua. Những phỏng đoán gần đây cho rằng hiện chúng đang nằm đâu đó tại nước Anh. Tên gọi chung của nhóm văn bản này chính là Sangraal (Chén Thánh).

Trong nội bộ tổ chức Tu viện Sion, bí mật về Chén Thánh được chia sẻ bởi một bộ tứ Quan án (sénéchal) cao nhất, trong đó người đứng đầu được gọi là Đại Sư (grand master). Khi có một người trong bộ tứ chết, ba người còn lại sẽ lựa chọn trong số những hội viên cấp thấp hơn một người mới để trở thành Quan án.
Sự tồn tại của hội kín Tu viện Sion được Brown đưa ra dựa vào một tài liệu viết trên giấy da tìm thấy trong kho lưu trữ của Thư viện Quốc gia Pháp tại Paris vào năm 1975 được biết đến dưới tên gọi Les Dossiers Secrets. Tài liệu này có liệt kê danh sách những Đại Sư của tổ chức kể từ năm 1188. Trong số họ có một vài cái tên rất nổi tiếng như Botticelli, Sir Isaac Newton, Victor Hugo và dĩ nhiên là Leonardo da Vinci. Nếu văn bản này là xác thực thì vị Đại Sư Da Vinci hẳn đã có phần bội tín vì đã vi phạm điều lệ của tổ chức Tu viện Sion khi gián tiếp tiết lộ bí mật về Chén Thánh qua bức tranh “Bữa tối cuối cùng” của mình.
(còn tiếp)
:eek:

ThichNuDiuHien
02-06-2006, 13:57
6/ Hoàng đế Constantine, Kinh tân ước và Chúa Jesus
http://img81.imageshack.us/img81/3710/contan4ra.jpg
Constantine I

Theo Dan Brown, từng có khoảng 80 sách Phúc âm khác nhau được cân nhắc cho Kinh Tân ước nhưng rút cuộc, chỉ có một vài trong số đó được thực sự đưa vào. Các Phúc âm của Matthew, Mark, Luke và John nằm trong số đó (Phúc âm là tường thuật về thân thế và cuộc đời hoạt động của Chúa Jesus trên trần thế).

Người đã tuyển chọn, chắp ghép tất cả các ghi chép lại với nhau để tạo thành bản Kinh thánh như chúng ta biết ngày nay là hoàng đế La Mã ngoại đạo Constantine Đại đế. Bản thân là một giáo trưởng của giáo phái tôn thờ thần mặt trời, Constantine chỉ thực sự chịu phép rửa tội để trở thành một tín đồ Công giáo trên chiếc giường chết của mình, khi ông đã quá yếu chẳng còn hơi sức đâu mà phản đối.

Động cơ cho việc “chuẩn hóa” Kinh thánh và tôn giáo của Constantine hoàn toàn mang tính chính trị. Vào thế kỷ thứ III sau Công nguyên, xung đột giữa những người Cơ đốc giáo và những người ngoại đạo đã lan rộng và có nguy cơ làm phân rã đế chế La Mã. Trước thực trạng này, Constantine vào năm 325 đã quyết định thống nhất La Mã dưới một tôn giáo duy nhất. Đó là Cơ đốc giáo. Là một chính trị gia khôn ngoan, Constantine đã đặt cược vào tôn giáo đang có xu hướng hưng thịnh tại thời điểm đó. Tuy nhiên vị hoàng đế này vẫn khéo léo chuyển đổi một phần của tín ngưỡng thờ mặt trời của mình vào Cơ đốc giáo. Bằng cách đưa những biểu tượng, ngày tháng và nghi lễ ngoại đạo vào Cơ đốc giáo truyền thống, Constantine đã tạo ra một tôn giáo lai ghép khả dĩ được cả hai phía chấp thuận.

Có thể kể một số ví dụ về sự hoà quyện giữa các tôn giáo như vầng hào quang trên đầu các vị thánh của Cơ đốc giáo xuất phát từ các đĩa mặt trời trong truyền thống Ai-cập. Các nghi thức Cơ đốc giáo như mũ tế của giám mục, bệ thờ, bài kinh ca ngợi Chúa hay lễ ban thánh thể đều có xuất xứ trực tiếp từ các tôn giáo khác trước đó. Ban đầu Cơ đốc giáo cũng coi trọng và tổ chức thánh lễ vào ngày Sabbath như người Do thái (tức là thứ Bảy) nhưng rồi Constantine đã dịch chuyển nó để trùng với ngày sùng kính mặt trời trong tín ngưỡng của ông. Đó là ngày Chủ nhật, ngày mặt trời (Sunday). Ngay cả ngày lễ Giáng sinh, 25/12, dường như cũng không liên quan đến ngày sinh thật của Jesus. Trước kỷ nguyên Ki-tô, Chúa Mithras của tín ngưỡng khác cũng sinh vào ngày 25/12, chết đi được quàn trong một hang đá và phục sinh sau đó ba ngày.

Một việc lớn khác mà Constantine đã thực hiện là tổ chức đại hội Cơ đốc giáo toàn thể nổi tiếng được biết đến với cái tên Hội đồng Necaea. Trong lần hội họp này, người ta đã tranh luận và biểu quyết về rất nhiều khía cạnh khác nhau của Cơ đốc giáo, chẳng hạn như ngày Phục sinh, vai trò của các giám mục, cách thực thi lễ ban phước, và thậm chí cả tính thần thánh của Jesus.
Cho đến thời điểm đó, Jesus vẫn được các tín đồ xem như một đấng tiên tri không bất tử, có nghĩa là một con người. Hội đồng Necaea, dưới sự tác động vì các toan tính chính trị của Constantine, đã biểu quyết cho sự xác lập Jesus như là “Con của Chúa trời”. Họ thần thánh hóa Jesus với mục tiêu xác lập quyền lực cho giáo hội và đế chế La Mã.

Bởi vì Constantine nâng cấp trạng thái của Jesus tận gần 4 thế kỷ sau khi Jesus mất nên vào thời điểm đó đã tồn tại hàng ngàn văn bản ghi chép về cuộc đời Ông như là một con người. Để viết lại lịch sử, Constantine đã thực thi một hành động táo bạo, đó là đặt làm và tài trợ cho bản Kinh thánh mới, trong đó loại bỏ tất cả các bản Phúc âm nói về những đặc điểm con người của đấng Ki-tô và tô vẽ cho những bản Phúc âm coi Ông như Chúa. Các bản phúc âm trước đó bị cấm, thu lại để đốt đi.
Thật may cho các sử gia khi không phải tất cả các sách Phúc âm cổ đều đã bị Constantine tiêu huỷ hết. Cuộn giấy da tìm thấy ở Nag Hammadi (Ai cập) năm 1945 và Cuộn giấy da có tên Biển Chết tìm thấy trong một hang đá trong sa mạc Judaen (Israel) vào thập niên 50 của thế kỷ trước chính là các sách Phúc Âm viết về Chúa Jesus với những góc độ rất con người. Dan Brown cũng dùng các đoạn văn trong Phúc Âm Philip và Phúc Âm Mary Magdalene cho lập luận của mình như tôi (tác giả) đã trình bày trong mục “Mary Magdalene”.

7/ Kết luận (phần I)

Những nghi án của lịch sử nhiều không kể xiết và đa phần sẽ không bao giờ được làm sáng tỏ. Sẽ chẳng có một lực lượng nào đứng ra xem xét để đưa ra phán quyết cuối cùng về tính đúng đắn của giả thuyết của Dan Brown. Chỉ với khoảng một giờ đồng hồ tìm kiếm trên Internet, tôi (tác giả) đã đọc được rất nhiều lập luận bác bỏ lại các thông điệp của “Mật mã Da Vinci”. Thú thật chúng cũng tạo nên cảm giác thuyết phục chẳng kém gì mấy so với lập luận của Dan Brown. Chính vì vậy tôi dự định viết bài này thành hai phần. Với phần I, tôi (tác giả) đã trình bày “Mật mã Da Vinci” như một giả thuyết. Trong phần II, tôi sẽ trình bày “Mật mã Da Vinci” như một “giả” thuyết. Để tạm kết luận, tôi chỉ có thể nói một câu đảm bảo đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Đó là chỉ có Chúa mới biết chuyện gì đã thực sự xảy ra với Ngài.
http://img53.imageshack.us/img53/3671/google2gr.jpg
(Còn tiếp)

Sang phần II, tác giả sẽ nêu nhiều lập luận phản biện lại "thuyết" của Dan Brown
:)

Windwolf
03-06-2006, 21:44
"Da Vinci Code" chính là để thử lòng tin của các con chiên , chỉ có người tin vào Chúa mới ko bị Brown cám dỗ

ThichNuDiuHien
05-06-2006, 08:33
Một giả thuyết không mới

Dan Brown, tác giả của “Mật mã Da Vinci” vốn không phải là một sử gia hay hay nhà nghiên cứu tôn giáo chuyên nghiệp. Ông đơn giản chỉ là một nhà văn thông minh và hiểu biết rộng. Đa phần các luận giải về Chén Thánh và Mary Magdalene trong cuốn tiểu thuyết không phải là của ông. Dan Brown đã dựa rất nhiều vào các công trình nghiên cứu của những người khác, tiêu biểu là tác phẩm “Dòng máu thiêng, Chén Thánh” (Holy blood, holy Grail) của Baigent, Leigh, hai sử gia hội Tam Điểm và Lincoln, một nhà văn. Những người đã đọc “Mật mã Da Vinci” hẳn có thể nhận ra rằng nhân vật Leigh Teabing chính là ẩn dụ của bộ ba kể trên. Leigh là họ của Richard Leigh, Teabing là phép đảo tự của Baigent, còn Lincoln thì góp cho nhân vật này những cái nẹp chân kim loại. Giống như Lincoln ngoài đời, Teabing cũng bị thọt. Ba tác giả này hiện cũng đang khởi kiện Dan Brown vì ông đã sử dụng công trình của họ mà không xin phép.

Với tài kể chuyện, Dan Brown đã thổi sự lôi cuốn và sinh động vào các giả thuyết sẵn có, xâu chuỗi chúng với nhau bằng những sử liệu và kiến giải của ông về những thông điệp mà người xưa chuyển tải qua các biểu tượng, kiến trúc và hoạ phẩm, biến các công trình nghiên cứu khô khan vốn chỉ được giới học giả quan tâm thành một một món ăn tinh thần mà cộng đồng bạn đọc bình dân dễ dàng hấp thụ.

Tuy nhiên, Dan Brown và cả những tác giả của các giả thuyết hoặc tư liệu có liên quan sẽ khó có thể phủ định được những gì vốn được coi là đúng trong suốt hai thiên niên kỷ qua, nhất là khi những điểm cơ bản mà họ muốn phủ định lại thuộc về Kinh Tân ước, văn bản thiêng liêng của một trong các tôn giáo lớn và lâu đời nhất của loài người. Những người không ủng hộ Dan Brown có đủ lý lẽ để bẻ gãy thành từng mảnh chuỗi biện luận được trình bày khá công phu và logic trong “Mật mã Da Vinci”. Dưới đây tôi (tác giả) xin tóm tắt lại một số ý kiến phản biện của họ theo cùng mạch trình bày như phần I để mọi người có thể dễ dàng đối chứng.

1/ Bức tranh “Bữa tối Cuối cùng” của Leonardo Da Vinci
Với giới độc giả đại chúng vốn dễ tính và cũng dễ tin, những mật mã mà Dan Brown tìm thấy trong bức tranh “Bữa tối cuối cùng” của Leonardo Da Vinci chính là tiêu điểm và có tính thuyết phục cao nhất trong toàn chuỗi biện luận của ông nhờ vào tính trực quan của nó. Những người phản biện thì cho rằng nhân vật mà Dan Brown gọi là Mary Magdalene thực ra là John the Evangelist. Vẻ nữ tính của Thánh John trong tranh không phải là điều gì khác lạ. Các hoạ sĩ thời đó đều có xu hướng thể hiện Thánh John trong dáng vẻ ẻo lả như vậy. Mặt khác bức tranh này đặc tả một khoảnh khắc được ghi lại trong chính Phúc âm của John, khi Chúa phán rằng: “Sự thật là, một trong số các con sẽ phản bội ta” (John 13:21). Giả sử người ngồi bên phải Chúa là Mary Magdalene, thì Thánh John ở đâu? Nếu không có mặt trong bữa ăn, làm sao Thánh John có thể thuật lại nguyên văn lời của Chúa như vậy?

Theo tôi cách phản biện như trên là chưa thoả đáng. Dĩ nhiên Da Vinci không thể vẽ mười bốn nhân vật quanh chiếc bàn vì điều này là trái với kinh thánh. Rất có thể ý đồ của ông là đánh tráo John bằng Magdalene để bức tranh tuy bề ngoài thì có vẻ bình thường nhưng lại ẩn chứa những thông điệp của riêng ông.
http://img294.imageshack.us/img294/3735/bantayvochu6he.jpg

Dan Brown còn nhắc tới một điểm bí ẩn trong bức tranh nhưng không giải mã được ý nghĩa. Đó là một bàn tay mọc ra từ sau lưng của Judas Iscariot (xem hình) và không gắn với một nhân vật nào cả. Hẳn nhiên nó không thể là tay của Thánh Peter, trừ phi ông có một cấu trúc xương cổ tay dị dạng (nói nôm na là bị khoèo). Điều này thật vô lý vì Leonardo Da Vinci là một họa sĩ bậc thầy về giải phẫu học. Ông từng tiến hành việc mổ xác một cách bất hợp pháp để nghiên cứu về cấu trúc của cơ thể người. Bàn tay vô chủ đó cầm một con dao chĩa vào bụng của Thánh Andrew còn ông này thì giơ hai tay lên trời, vẻ mặt vô cùng hoảng hốt. Vậy hàm ý của Da Vinci là gì? Theo tôi, bàn tay đó thuộc về người thứ mười bốn, bàn tay của Thánh John. Da Vinci đã thể hiện đủ các nhân vật một cách vô cùng khéo léo.
Còn về chi tiết tại sao không tồn tại một cái ly có chân đế trên bàn ăn (vật sau này sẽ trở thành Chén Thánh linh thiêng) thì tôi không tìm thấy một lý giải rõ ràng nào cả. Tuy nhiên, chúng ta hãy cùng thưởng thức một lý giải mang tính hài hước xem sao.
Da Vinci có vẽ Chén Thánh. Nó nằm ngay ở phần trung tâm của bức tranh, lồ lộ trước mắt mọi người. Hãy xem hai hình ảnh bên dưới. Hình phía trên là một công cụ (cái giũa) từng được các thợ mộc vào thời đại của Da Vinci sử dụng một cách phổ biến. Hình dáng của nó khá tương đồng với vật thể nằm trong bàn tay bí ẩn. Còn hình phía dưới là tên và mô tả của công cụ này trong từ điển Webster toàn tập xuất bản năm 1913. Theo đó, công cụ được gọi là Graille, một loại giũa có một cạnh thẳng và một cạnh uốn cong. Vậy là Da Vinci đã chơi chữ. Ông vẽ một đồ vật có tên là Graille để ám chỉ từ đồng âm với nó là Chén Thánh (Holy Grail). Điều này đúng hay sai, dĩ nhiên tuỳ bạn quyết định.
http://img294.imageshack.us/img294/5117/bantayvochu20ak.jpg

2/ Mary Magdalene
Dan Brown sử dụng các sách Phúc âm theo thuyết ngộ đạo (Gnostic Gospel) mà ông cho là những ghi chép sớm nhất về Chúa Jesus, thậm chí sớm hơn cả Kinh Tân ước để làm minh chứng cho mối quan hệ giữa Mary Magdalene và Jesus cũng như vị trí của nàng so với các thánh tông đồ khác. Tuy nhiên, những người phản bác ông lại khẳng định điều ngược lại. Theo họ, trong khi tất cả các sách Phúc âm kinh điển đều ra đời trong khoảng từ giữa đến cuối thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, thì các sách Phúc âm Ngộ đạo chỉ xuất hiện khá lâu sau đó, sớm nhất cũng phải vào khoảng giữa thế kỷ thứ Hai.

Về trích đoạn của Phúc âm Philip mà Dan Brown sử dụng: “Và người đồng hành với Đấng Cứu thế là Mary Magdalene. Đức Ki-tô yêu bà nhiều hơn tất cả các tông đồ khác và người thường hôn lên môi bà. Những tông đồ còn lại cảm thấy khó chịu bởi điều đó và bày tỏ sự không chấp thuận. Họ nói với Chúa, ‘Tại sao Thầy lại yêu nàng hơn hết thảy chúng con?’” thì Jennifer Rast, một trong những người phản đối, cho rằng nó không chứng minh được Mary Magdalene là vợ của Jesus. Thứ nhất nụ hôn môi kiểu như thế này đã được thánh Paul đề cập tới trong câu 1 Corinthians 16 của Kinh Tân ước như là một nụ hôn trinh bạch thể hiện tình bằng hữu. Thứ hai, trong ngôn ngữ Ai cập cổ (Coptic) của nguyên bản, từ người đồng hành (koinonos) chỉ đơn thuần là người đồng hành, chứ không mang ý nghĩa là vị hôn thê như phát biểu của Dan Brown. Theo tổ chức tôn giáo Catholic Answers của Mỹ, lý do khiến Dan Brown và một số người khác cố gắng ép Mary Magdalene vào vai trò là vợ của Chúa Jesus bởi vì nàng là một trong số có thể đếm được trên đầu ngón tay những phụ nữ vừa là môn đệ xuất chúng của Chúa, vừa có tên tuổi rõ ràng và quan trọng hơn, không thấy thấy được kể là có kết hôn với ai đó. Họ cũng bình luận rằng, trong khi tập trung đề cao và khai thác các bản Phúc âm Ngộ đạo phù hợp với giả thuyết của mình, Dan Brown lại lờ đi bản Phúc âm Thomas, dù nó cũng là một bản Phúc âm Ngộ đạo. Bởi vì theo những gì Thánh Thomas viết lại thì khó có thể có chuyện Chúa Jesus dự định lựa chọn Mary Magdalene, hay nói chung là một phụ nữ, làm người kế tục mình để xây dựng và điều hành giáo phái. Chúa đã nói với các môn đệ rằng: “Tất cả những người phụ nữ tự làm cho mình thành đàn ông sẽ được bước vào nước Thiên đàng”.

Còn sự cạnh tranh quyền lực giữa Peter và Mary Magdalene mà Dan Brown đề cập, theo Amy Welborn, người phụ trách chuyên mục của tạp chí tôn giáo “Our Sunday Visitor”, chỉ là sự suy diễn và phỏng đoán. Chẳng có bằng chứng lịch sử nào chứng thực cho điều đó. Thậm chí nó còn phi logic. Luận điểm của Brown dựa trên giả định rằng Thánh Peter và “bè đảng” của ông làm đã tất cả để thâu tóm quyền lực. Nhưng quyền lực đó giúp họ đạt được mục đích gì? Họ không vì thế mà trở nên giầu có. Họ cũng không vì thể mà được nền văn hóa Do thái tôn vinh. Tất cả họ đều chết đi trong sự khinh miệt của người đương thời như những thánh tử đạo.

3/ Hội kín Tu viện Sion
Tu viện Sion không phải do Godefroi de Bouillon sáng lập năm 1099 tại Jerusalem như phát biểu của Dan Brown. Theo những người phản biện ông, Tu viện Sion là tên của một tổ chức được bốn chàng trai trẻ người Pháp thành lập vào năm 1956 tại vùng Annemasse. Tổ chức này có đăng ký hoạt động với chính quyền địa phương và tồn tại không lâu. Từ Sion, vốn rất dễ làm nảy sinh mối liên tưởng tới ngọn núi Zion huyền thoại tại Jerusalem, thực chất chỉ là tên của một ngọn núi nằm ở ngoại vi Annemasse (Col du Mont Sion). Cương lĩnh chính thức của Tu viên Sion khi thành lập là cổ suý cho việc phát triển nhà ở giá rẻ tại địa phương và không hề liên quan đến các chủ đề tôn giáo. André Bonhomme, chủ tịch đầu tiên của tổ chức, đã nhiều lần khẳng định điều này trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Những giả thuyết về Tu viện Sion mà Dan Brown sử dụng trong lập luận của ông đều xuất phát từ Pierre Plantard, một trong bốn sáng lập viên của tổ chức. Dòng họ Plantard cũng được Dan Brown đề cập như là một trong các nhánh hậu duệ của triều đại Merovingie hay xa hơn là của Chúa Jesus. Còn với những người chống Dan Brown, Pierre Plantard chẳng là gì hơn một gã hoang tưởng, một tín đồ Công giáo La Mã bảo thủ với lập trường bài Do thái và chống lại cộng đồng Vatincan II, từng bị toà kết án sáu tháng tù vì tội “gian lận và biển thủ”. Pierre Plantard bắt đấu sáng tác các câu chuyện về cội nguồn của ông và của Tu viện Sion vào thập kỷ 60 sau khi ông gặp Gerard de Sede. Cả hai đã xuất bản một số bài báo và sách về chủ đề này. Mặc dù tự nhận mình là con cháu trực hệ của vua Dagobert II (triều đại Merovingie) nhưng Pierre Plantard lại luôn giữ khoảng cách với những luận thuyết về “dòng máu thiêng”. Trong các tài liệu của mình, ông cũng không đề cập tới Kinh Tân ước và phủ nhận mối liên quan giữa cương lĩnh của Tu viện Sion với thân thế của Chúa Jesus.
Còn về tài liệu Les Dossiers Secrets tìm thấy tại Thư viện Quốc gia Paris năm 1975 trong đó có liệt kê tên của các vị Đại Sư (Grand Master) của tổ chức Tu viện Sion kể từ năm 1099 (Lenonardo Da Vinci hay Isaac Newton nằm trong số những cái tên này), người ta đã đi đến kết luận tài liệu này là giả mạo. Thậm chí một số người còn quy kết rằng chính Pierre Plantard đã cất giấu nó vào đó.
Về lịch sử của dòng Hiệp sĩ Thánh chiến (Knight Templar), những người phản đối Dan Brown cho rằng đội quân tôn giáo này được thành lập vào năm 1118 nhằm bảo vệ những người hành hương đến vùng Đất Thánh. Sứ mệnh của họ vì vậy nhận được sự ngưỡng mộ to lớn của xã hội đương thời và nhờ đó họ thu được rất nhiều tài sản và đất đai do những người ủng hộ hiến tặng. Sau khi cứ điểm cuối cùng của quân thập tự chinh bị thất thủ vào năm 1291, vai trò của dòng Hiệp sĩ Thánh chiến cũng vì thế mà mai một đi. Lúc đó, sự giầu có và quyền lực chỉ còn đem lại sự thù địch cho họ mà thôi.
Dan Brown quy kết việc trấn áp đội quân này cho giáo hoàng Clement V là không chính xác. Sự việc này thực ra được khởi đầu bởi hoàng đế Pháp Philippe Tuấn tú (Philippe le Bel) vào năm 1307. Theo lệnh của ông, khoảng 120 hiệp sĩ Thánh Chiến, trong đó có thủ lĩnh của họ là Jacques de Molay, đã bị kết án và thiêu sống bởi các tòa án dị giáo Pháp. Ngoài số người kể trên, có rất ít Hiệp sĩ Thánh chiến phải thụ hình ở các nơi khác mặc dù cơ cấu của đội quân này bị hủy bỏ vào năm 1312. Một giáo hoàng yếu ớt như Clement, vốn là một người Pháp và chịu sự giật dây bởi hoàng đế nước ông, chẳng thể thiêu sống ai ở Vatican, Rome như lời của Brown, đơn giản vì ông này là giáo hoàng đầu tiên trị vì tại cung điện Avignon (nằm trên lãnh thổ Pháp).

4/ Hoàng đế Constantine, Kinh tân ước và Chúa Jesus
Theo những người phản bác Dan Brown, hoàng đế La Mã Constantine I không giữ vai trò gì trong việc biên tập kinh Tân ước. Đây là một quá trình lâu dài và đã bắt đầu vào khoảng đầu thế kỷ thứ hai sau công nguyên trong khi Constantine (306 – 337) phải đến tận thế kỷ thứ Tư mới ra đời. Mặc dù có tới khoảng 80 bản Phúc âm khác nhau, nhưng chỉ có bốn bản Phúc âm được đưa vào kinh Tân ước là vì các Đức Cha của Nhà thờ Công giáo ở thế kỷ thứ hai thường xem chúng là những bản xác tín nhất. Tiêu chí của họ là chỉ lựa chọn những bản nào do thánh tông đồ viết ra và trung thành với đức tin của tôn giáo này. Thêm vào đó, sự phán quyết cuối cùng về cấu trúc của kinh thánh Cơ đốc giáo được giáo hội thông qua sau thời đại của Constantine.

Một trong các luận điểm của Dan Brown là Cơ đốc giáo vay mượn nhiều yếu tố của các tôn giáo khác dưới sự cưỡng ép của hoàng đế Constantine. Ví dụ như việc họ chọn ngày 25 tháng 12 làm ngày sinh của Chúa Jesus. Theo Dan Brown, thân thế của Chúa Jesus có nhiều điểm tương đồng với truyền thuyết về Chúa Mithras trước đó, người được xưng tụng là Con của Chúa trời và Ánh
sáng của Thế giới trong tôn giáo Mithraism của người Ba Tư (Persian) cổ đại. Mithras cũng sinh vào ngày 25 tháng 12, cũng được chôn cất trong một hang đá và phục sinh sau đó ba ngày. Tuy nhiên những người phản bác ông lại cho rằng không thể coi ngày 25 tháng 12 là ngày sinh chính xác của Chúa được vì điều này không hề được nhắc tới trong kinh Tân ước. Trên thực tế, những tín đồ Cơ đốc giáo vào buổi sơ thời đã chọn ngày này làm ngày Chúa giáng sinh là có chủ đích. Họ muốn chống đối lễ hội thần Saturn (Thổ tinh) của đa thần giáo diễn ra cùng thời gian, vào giữa tháng 12 hàng năm. Hơn thế nữa, tín ngưỡng Mithraism không nhắc tới cái chết của Mithras vì thế cũng chẳng thể có mộ chí trong hang đá hay sự phục sinh nào cả.
Theo Dan Brown, Constantine I còn dịch chuyển các nghi lễ của Cơ đốc giáo vốn được tổ chức vào thứ Bẩy hàng tuần (giống lễ Sabbath của người Do Thái) sang ngày Chủ nhật để trùng với ngày sùng kính mặt trời trong tôn giáo của ông. Những người phản đối thì cho rằng đây là một gán ghép khiên cưỡng. Các tín đồ Cơ đốc tôn vinh ngày Chủ nhật như là ngày Sabbath từ rất lâu trước Constantine. Có thể thấy điều này qua kinh Tân ước. Các trích dẫn trong sách Công vụ của các sứ đồ (Acts 20:7) và 1 Corinthians 16:2 chỉ rõ rằng ngày Sabbath của người Cơ đốc là ngày đầu tiên trong tuần (tức Chủ nhật).

Cũng không thể nói rằng phải đến tận Hội đồng Nicaea (325 sau C.N.) thì Jesus Christ mới được xác lập như một đức thánh linh và được thờ phụng như Chúa trời. Trong kinh Tân ước, Jesus được xưng tụng là Đức Chúa (theos) bẩy lần và được gọi là Vị chúa tể (Lord) theo nghĩa thần thánh một số lần khác. Ai cũng thấy rằng kinh Tân ước có niên đại sớm hơn Hội đồng Nicaea rất nhiều.
Về các cuộn giấy da tìm thấy ở Nag Hammadi (Ai cập) năm 1945 và ở sa mạc Judaen (Israel) vào thập niên 50 của thế kỷ trước mà Dan Brown cho là ghi lại nội dung của các sách Phúc âm cổ viết về Chúa Jesus với những góc độ rất con người, thì những người khác lại nói rằng đơn giản là ông đã nhầm lẫn. Cuộn giấy da tìm thấy tại sa mạc Judaen là một văn bản Do thái đơn thuần. Nó không chứa đựng bất kỳ một Phúc âm nào và thậm chí còn không để cập đến Jesus.

5/ Kết luận
Có thể thấy lập luận của những người phản bác Dan Brown đa phần dựa trên một tiền đề là Kinh Tân ước là hoàn toàn chân thực và không hề được sửa chữa kể từ khi nó ra đời. Còn Dan Brown thì lại cho rằng kinh Tân ước đã được biên tập lại theo chủ trương của hoàng đế Constantine. Sự khác biệt này là không thể phân định đúng sai. Và cũng tương tự như phần I, tôi chỉ có thể nói một câu đảm bảo đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Đó là chỉ có Chúa mới biết chuyện gì đã thực sự xảy ra với Ngài.
:yes: :yes: :yes:


"Da Vinci Code" chính là để thử lòng tin của các con chiên , chỉ có người tin vào Chúa mới ko bị Brown cám dỗ
:yes: :yes: :yes: :yes:

Vh81
05-06-2006, 14:28
Truyện rất hay, đã có bản tiếng Việt mới in lại. chưa xem film và game, không biết có hấp dẫn không?

ThichNuDiuHien
05-06-2006, 15:56
Truyện rất hay, đã có bản tiếng Việt mới in lại. chưa xem film và game, không biết có hấp dẫn không?
Bản in lại đã "khắc phục" được nhiều lỗi dịch thuật trước đây, tớ mới đọc khoảng vài chục trang đầu, quả là hấp dẫn...
Phần Game thì cũng đang chơi mấy màn đầu.
Dù game chỉ được đánh giá ở mức trên trung bình nhưng nhờ nội dung game bám khá sát truyện nên cũng tạo sự hấp dẫn.
http://img102.imageshack.us/img102/8595/game4qi.jpg

dly
05-06-2006, 16:06
Còn nữa không bác Thích, Để nhà cháu liệu mà lôi hết mấy cái của quỷ này xuống đóng thành tập luôn thể. Thanhk's

Hôm nào phải đem bác ra xử bắn mới được. Làm con người ta ngồi đọc quên cả nấu nước cho bà xã tắm. Bả nhăn quá trời

hieept
05-06-2006, 23:37
chà, chừng nào bác Dly đóng thành tập, cho em fôtô 1 bản nhé,
mà sao bác Thích nữ lôi đâu ra lắm thông tin thế này nhỉ? bác search suốt àh?

ThichNuDiuHien
06-06-2006, 08:30
Còn nữa không bác Thích, Để nhà cháu liệu mà lôi hết mấy cái của quỷ này xuống đóng thành tập luôn thể. Thanhk's
Tư liệu thì còn hơn chục trang nữa nhưng...thui, tính để đọc xong sẽ viết bài cảm nhận (sao chép of người khác hoài cũng...kỳ)- vì cuốn truyện khá hay và có nhiều "tình tiết" mà nay mình mới biết.


Hôm nào phải đem bác ra xử bắn mới được. Làm con người ta ngồi đọc quên cả nấu nước cho bà xã tắm. Bả nhăn quá trời
Chỉ có quỷ mới dám...quên như dzậy :evil:

dly
28-06-2006, 07:25
Đọc trên mạng thấy có bài này góp với bác Thích để gọi là có xuôi, có ngược

NHỮNG LUẬN-CỨ CHỐNG LẠI THUYẾT CỦA SÁCH THE DA VINCI CODE
CON-CHÁU CỦA CHÚA GIÊ-XU PHẢI
CHĂNG LÀ 144.000 NGƯỜI BÍ-MẬT ?

Tác giả viết bài này nặng về quan-diểm thần-học trích-dẫn bằng Thánh-Kinh cho Ky-tô-hữu trong thời-đại mới của khoa-học.

Mục-sư Nguyễn Quang Minh

Phim The Da Vincy Code do Dan Brown viết đã được chiếu trên toàn thế giới. Trên 30 triệu quyển-sách này đã được bán ra với nhiều thứ tiếng. Được biết có đến 1/3 người đọc tiểu-thuyết này và tin là thật.

Sau đây là những luận-cứ phản-bác lại căn-cứ vào Thánh-kinh và suy-luận gồm điểm chánh ai là 144.000 người bí-mật đã được Thánh-kinh đề-cập vào ngày tận-thế. Mục đích là để chứng minh Đức Giê-xu tuy mang bản-tánh con-người nhưng Ngài không cần phải có những va-chạm tình-dục xác-thịt để hoàn tất sứ-mạng cứu-độ chúng-sinh mà Thượng-đế đã giao-phó cho Ngài. Cho nên những gì sách The Davincy Code có “vẽ vời” cũng không có gì là quan-trọng đối với Đức-tin của Ky-tô-hữu.

1. BÀ MA-RI MA-ĐƠ-LEN LÀ VỢ CỦA ĐỨC CHÚA GIÊ-XU

Điều này không đúng. Trong 4 Sách Phúc-âm của 4 môn-đồ Ma-thi-o, Mác, Lu-ca và Giăng và cả các thơ của thánh-đồ Phao-lô không hề nói đến. Nói tóm lại trong cả Kinh-thánh từ Cựu Ước lẫn Tân-Ước đều không nói điều này, kể cả hai người là tình-nhân của nhau.

2. MA-RI MA-ĐƠ-LEN LÀ MÔN-ĐỒ MÀ CHÚA GIÊ-XU YÊU

Đúng là có 8 câu trong Tân-Ước nói “người môn-đồ” mà Chúa yêu, nhất là Phúc-Âm Giăng. Nhưng không Phúc Âm nào nói đích-danh đó là bà Ma-ri Ma-de-len. Lâu nay các thần học gia tin rằng đó là môn-đồ Giăng vì khiêm nhường không muốn nêu lên đó là mình. Nhưng những nghiên cứu kỹ-hơn về đặc tính nóng nảy của ông Giăng (như đòi gọi lửa từ trời xuống tiêu diệt cả một thành-phố, và hay làm mất lòng các môn-đồ khác) thì cho thấy có lẽ là ông La-xa-rơ là người mà Chúa yêu và đã làm cho sống lại thì thích hợp hơn. Nhưng đây cũng chỉ là một phỏng-đoán mà thôi.

3. MA-RI MA-ĐƠ-LEN NẰM TRÊN NGỰC CHÚA GIÊ-XU

Đúng là Phúc-âm Giăng có nói có một môn-đồ nằm trên ngực Chúa Giê-xu trong buổi ăn-tối tiệc-ly (the last supper), nhưng không nói tên là ai. Họa-sỹ Da Vincy khi vẽ bức-tranh này đã vẽ một người “giống” phụ-nữ ngồi bên phải Ngài, nhưng không thể đoán chắc đó là Ma-đơ-len. Vì ông Davinci có thể tưởng-tượng theo ý ông, hoặc đó là một môn-đồ trẻ tuổi chưa có râu mà thôi. (Có một bức ông vẽ Giăng Báp-tit (Gioan Tẩy-giả) giống hệt một phụ-nữ, cười hóm hỉnh thì sao !)

4. CHỮ “M” VÀ CHỮ “V” ẨN-Ý TÌNH-NHÂN GIỮA 2 NGƯỜI

Davinci vẽ Ma-đơ-len ngồi bên phải Chúa Giê-xu và 2 người ngã về 2 phía, tạo thành một chữ tưởng-tượng là M, ý nói đó là Marriage (hôn-nhân), chỉ là sự tưởng-tượng của tác-giả tiểu-thuyết Dan Brown mà thôi. Rồi giữa chữ M lại có khung cửa-sổ thẳng đứng, họa-sỹ có thể cho đó là ký-hiệu của phụ-nữ, thì cũng là một sự tưởng-tượng hay nghịch ngợm mà thôi.

5. CÁC SÁCH PHÚC-ÂM“NGỤY KINH” GNOSTIC GOSPELS THÌ SAO ?

Ngay cả những Phúc-Âm Gnostic (Sự Hiểu Biết = Minh Triết) như Phúc Âm theo Tông-Đồ Ma-ri Ma-đơ-len (bị Thiên-Chúa-Giáo cấm phổ-biến từ Thế Kỷ thứ 3) hay Phúc-Âm theo Tông-đồ Phi-lip (cùng một thời đó), và Phúc-Âm theo Tông-đồ Giu-da (mới được phổ-biến trên báo chí tháng 4 năm 2006 vừa qua sau khi bị chôn vùi 17 thế-kỷ dưới sa-mạc Ai-cập) cũng không hề nói Giê-xu và Ma-đơ-len là vợ-chồng hay là tình nhân. Nếu Giê-xu là chồng của bà, thì bà phải hãnh-diện lắm và ghi trong Phúc-Âm của bà chứ! (The Gospel of Mary Madelaine) ? Trong khi Tông-đồ Phi-lip chỉ ghi rằng Chúa đã hôn bà Ma-đơ-len trên …. (kiss on the …)(bị mất nơi bản chính.) mà thôi. Lại còn ghi rằng Chúa đã giao quyền lãnh-đạo Đạo-Chúa (Christianity) cho Ma-đơ-len chớ không phải là cho Tông-đồ nào khác và ông đã “trở-thành” vị Giáo-hoàng đầu tiên. Nhưng sự hôn miệng này (nếu là đầu hay miệng,trán,má,không rõ) chỉ là phong-tục của thời bấy giờ ở Trung-Đông. Ngày xưa khi dân Do Thái thề còn phải để tay người thề lên “đùi” người kia thì sao (bởi vậy nên mới có chữ Testify gốc của chữ Testicle)

6. XƯNG-HÔ GIỮA CHÚA GIÊ-XU VÀ MA-RI MA-ĐƠ-LEN

Ma-đơ-len là người đầu tiên thấy Đức Giê-xu sống lại trong mồ. Bà là người PHỤ-NỮ đầu tiên và là “MÔN-ĐỒ” đầu-tiên trong 13 môn-đồ thấy Chúa Giê-xu sống lại. Nếu là chồng thì bà đã gọi là “Chồng ơi, anh ơi, hay mình ơi !”v.v…Nhưng bà lại gọi là “THẦY ơi !” hay là “Thưa THẦY” (Rabuni, có nghĩa là Thầy) (Phúc-âm Giăng (Gioan) 20:16 “Đức Chúa Giê-xu phán rằng: Hỡi Ma-ri ! Ma-ri bèn xoay lại lấy tiếng Hê-bơ-rơ mà thưa rằng: Rabuni (nghĩa là Thầy)! Nếu để ý ta sẽ thấy Đức Giê-xu không có gọi bà là: Vợ ơi, em ơi, người tình ơi, hay là mình ơi !

Một trường-hợp khác là khi Chúa Giê-xu chết nơi thập-giá đã trăn-trối với Ba (3) người phụ-nữ có mặt, gồm Đức-Mẹ Ma-ri, mẹ Ngài, Dì Ngài là Ma-ri vợ của Cô-lê-ơ-ba, và Ma-ri Ma-đơ-len. Ngài trối với Mẹ Ngài về người môn-đồ mà Ngài yêu (chỉ có 3 phụ-nữ lúc đó): Thưa Mẹ, đây là CON của Mẹ, và quay sang nói với người môn-đồ đứng kế-bên: Và đây là MẸ của ngươi! (Kinh-thánh tiếng Anh thì viết là “thy”, có nghĩa là “your”). Kinh thánh ghi tiếp là “từ đó, người môn-đồ này rước Mẹ Ngài về ở với mình!” Xin lý luận rằng: “Nếu người này là tông-đồ Giăng hay là ông La-xa-ro, họ đều là đàn-ông thì sao lại rước Mẹ của Ngài về ở, đâu có tiện. Vậy thì phải là Ma-ri Ma-đơ-len, là một “môn-đồ” đã lẻo-đẻo theo Chúa nhiều năm thì việc này mới có lẽ thích hợp hơn. Đây cũng chứng-minh cho thấy Mẹ Ma-ri KHÔNG CÓ NGƯỜI CON NÀO KHÁC cả có thể lo cho Bà, nên Chúa Giê-xu đã gởi-gắm cho “người môn-đồ mà Chúa yêu” này. Và lúc đó thì chỉ có 3 người phụ-nữ tại đó mà thôi! Vậy thì người đó là ai ?------- Nơi đây ta cũng không thấy có một sự xưng-hô nào giữa Chúa Giê-xu và Ma-ri Ma-đơ-len bằng danh xưng giữa người yêu hay là giữa vợ chồng nào cả ! Có thể lúc-đó Ngài nhắn-nhủ với tất cả ai TIN nơi Ngài, và yêu-mến Ngài phải xem Mẹ Ngài như Mẹ mình vậy ! (Phúc Âm Giăng đoạn 19 câu 27).

7. NHỮNG HỘI KÍN NỬA ĐỜI NỬA TÔN-GIÁO MÀ DAN BROWN NÓI ĐẾN ?

Tổ chức Templar Knights có từ thế kỷ 11 có thể là một tổ-chức kín để bảo-vệ “dòng dõi” của Chúa Giê-xu do Ma-đơ-len sanh ra một cách mầu-nhiệm như sự thụ-thai của Đức Mẹ Ma-ri mà không qua luật sinh-lý của con người như chúng ta. Xin độc-giả đừng hốt-hoảng về những suy luận này. Đây là những tu-sĩ kiêm chiến-sĩ (warrior monks) giống như Thiếu Lâm Tự bên Tàu ngày xưa.Tổ chức quyền uy và giàu có này sau còn có tên là Priory of Zion (núi Xi-ôn) và cho tới ngày nay đã biến thể thành hội kín Mason Tam-Điển đã từng thảo ra Hiến- pháp nước Mỹ.

Và họ đã bảo vệ dòng-dõi con cháu vô-nhiễm nguyên-tội của Đức Giê-xu truyền qua cách mầu-nhiệm qua Ma-de-len và ngày nay họ đang sống trong vòng chúng ta, CÓ THỂ là 144,000 người bí mật mà trong 2,000 năm nay chúng ta không rõ là ai.

Mười bốn vạn bốn ngàn (144.000) người này có đầy đủ đặc-tính của con-cháu của Chúa Giê-xu: Hãy xem sách Khải-huyền Giăng đoạn 14:1 “Tôi nhìn xem thấy Chiên Con đứng trên núi Si-on, và với Ngài có 14 vạn 4 ngàn người ĐỀU CÓ DANH CHIÊN CON VÀ DANH CHA CHIÊN CON GHI TRÊN TRÁN MÌNH. Họ hát một bài ca mới trước ngôi… không ai học được bài ca đó, họa chăng chỉ có mười bốn vạn bốn ngàn người, đã được CHUỘC KHỎI ĐẤT mà thôi…CHIÊN CON ĐI ĐÂU, NHỮNG KẺ NÀY THEO ĐÓ. Những kẻ đó đã được CHUỘC TỪ TRONG LOÀI NGƯỜI”. (Tức là phải đã làm qua kiếp người rồi, như Đức Giê-xu đã phải hóa-thân làm người rồi thì mới được cứu-chuộc).

Thánh kinh ghi “Chiên con đứng trên núi Si-ôn” thì đạo-quân bí-mật này đã từng bị tàn-sát thời trung-cổ lại có tên là “The Priory of Zion (tức là Núi Si-ôn)! Dan Brown nói đúng về lai-lịch của đạo-quân này trong sách của ông! Và tại thư-viện Pháp ngày nay cũng có “The Secret Files” của tổ-chức này nữa, có đăng-ký tại thư-viện Pháp mới đây. Nhưng theo các báo-chí và cảnh-sát Pháp thì người này đăng-ký hội-kín này vào năm 1956 đã xác nhận công-khai với truyền-hình Anh là ông đã “bịa-đặt” để mạo-nhận rằng ông là dòng-dõi của một ông Vua nước Pháp vào thế-kỷ thứ 12 là Merovingiam. Và ông vua này lại là hậu-duệ của Chúa Giê-xu và Ma-đơ-len !------ Điều-tra về ông, ông khai là làm “tài-liệu giả” rồi ghi những danh nhân nổi tiếng như là Isac Newton, Voltaire, và Leonard Da Vincy vào 2 tờ gia-phả giả-mạo, và ám chỉ rằng họ cũng là hậu-duệ của Chúa Giê-xu và Ma-de-len. Vì vậy Dan Brown mới căn-cứ vào đó mà viết cuốn tiểu-thuyết mình. Ông tên là Pierre Plantard và đã mất năm 2000.

Luận về con số 144.000 người và nếu bảo rằng cả thế giới (nay đang có tới 2 ngàn triệu tín-đồ Ky-tô-giáo, tức là 2 tỷ mà chỉ có 144.000 người được Chúa cứu đưa về Thiên-Đàng thì là quá vô lý. Còn 4 tỷ người con lại không theo đạo “Cơ-Đốc-Giáo hay Ky-tô-Giáo hay Đạo Chúa” không lẽ là người “gian ác” cả sao, và Thiên-Chúa không cứu-độ và bỏ họ vào hỏa-ngục cả sao ? Còn hàng tỷ người đã chết rồi không lẽ không có ai được cứu-độ nữa hay sao? Vậy thì 144.000 người này phải là loài người rất đặc-biệt! Họ là ai, mà lại có khắc tên CHA là Chiên-Con và tên ÔNG NỘI là Cha của Chiên-Con mình trên trán, nếu không phải là hậu-duệ, là dòng-dõi con cháu của Đức Giê-xu? Đoạn sau sẽ cho thấy Thượng Đế đã nhiều lần muốn xâm-nhập dòng-dõi Trời vào thế-giới chúng ta.

8. THƯỢNG-ĐẾ ĐÃ NHIỀU LẦN MUỐN CẤY (plant) NGƯỜI XUỐNG TRẦN-GIAN NÀY

Đây không phải là lần đầu Thiên-Chúa muốn đặt một số “đại-sứ” của Ngài ở trần-gian. Mà là có thể là LẦN THỨ 3, để gìn-giữ chúng-sinh khỏi nanh-vuốt của Qủy Sa-tăn, đối-thủ (opponent) nguy-hiểm của Ngài. Tôi gọi Sa-tăn này là “Hạ-đế”(Low King) để đối nghịch lại với “Thượng-Đế” cho nó có vẻ vô-tư giữa các thế-lực trên trời tranh-chấp với nhau! (Thánh Phao-lo nói: “Chúng ta không phải chiến-đấu với THỊT và HUYẾT, mà là với những thần dữ của các thế-lực tối-tăm TRÊN CÁC TỪNG TRỜI). Chúng ta được đồng-minh là Thiên-Chúa giúp, nhưng chúng ta phải tự-mình mà chiến-đấu !

Lần thứ nhất Thượng-đế đã gửi “sứ-thần” xuống trần gian để giúp chúng ta có được một “hậu-duệ”của Ngài thanh-sạch, nhưng Sa-tan đóng-đô sẵn trên địa-cầu này còn quá mạnh, nên Ngài đã phải “thu-hồi” các đại-sứ về Trời. Ta hãy xem câu kinh-thánh sau trong Sách Sáng-Thế-Kỷ đoạn 6:1 “Và khi loài người bắt đầu gia-tăng và sanh được con-gái rồi (có nghĩa trước đó loài người chỉ có đàn ông mà thôi, đông-đúc thêm nhờ phương pháp “multiplied” chớ không qua sự sinh-đẻ, như E-va đã được multipled/cloned ra từ A-dam ) thì các con trai Đức Chúa Trời thấy các con gái loài người xinh-đẹp bèn cưới làm vợ những người họ chọn. Chúa Trời phán: “THẦN ta sẽ chẳng ở mãi với loài-người (chúng-sinh), vì chúng chỉ là xác-thịt, đời người sẽ chỉ được 120 tuổi (Ta chỉ cho sống tới chừng đó thôi)” (Xem sách Giop có đến 2 lần ghi những cuộc “hội-nghị” trên trời giữa các “đại-sứ” của vũ-trụ về chầu Thượng-Đế, ta sẽ thấy họ là các “con trai” của Đức Chúa Trời! Giop đoạn 1:6 và 2:1. “Một ngày kia các con-trai của Đức Chúa Trời đến chầu Ngài, Sa-tăn cũng đến với họ để chầu Chúa Trời. Chúa hỏi Sa-tăn, ngươi từ đâu đến? Sa tăn đáp: Tôi đi quan-sát đó đây, qua lại khắp nơi trên địa-cầu ” (Cho thấy địa-cầu cũng có đại-sứ là Sa-tăn nữa).

Lần thứ nhất này đã thất bại, nên lần thứ hai Thượng đế đã hóa-thân (incarnated) qua bụng Đức Mẹ Ma-ri, và máu tinh-sạch từ Trời của Ngài đã làm tinh-sạch máu của Đức Mẹ, và đã biến Đức Mẹ thánh vô-nhiễm nguyên-tội, và Đức Mẹ chính là con-người đầu tiên nhận Mình Thánh Chúa (Tiệc Thánh / Eucharist) Và Thượng –đế đã thành công bằng phương-pháp hóa-thân này. Vì vậy mà Đức Giê-xu mới được gọi là NGƯỜI-TRỜI (God-man), bản-tính là Trời, nhưng bản-chất là con-người. Và là con người nên Ngài mang đủ mọi hỷ-nộ-ái- ố như con người vậy. Nhưng Ngài đã chiến-thắng bản-chất người của mình khi Ngài chịu “uống chén của Cha mà không theo ý của con” để chết cứu-độ cho kiếp người mang nguyên-tội của chúng-sinh (ác-nghiệp chớ không phải tội-lỗi). Và khi Ngài “trút linh-hồn” trên cây tử-hình (thập-giá) thì chính ngài đã THỞ RA (HÀ HƠI) THẦN-KHÍ của Ngài để bao-phủ lên khắp chúng-sinh từ cổ chí kim, kể cả những người không hề nghe và biết và tin nơi danh Giê-xu nữa! Và đó là ÂN-ĐIỂN vĩ-đại nhất từ Trời ! (Bởi vậy mà trời-đất mọi rung chuyển động-đất và nhiều thánh-nhân đã sống lại từ mồ mả!)



Phải chăng lần thứ ba này Ngài đã để lại hậu-duệ của Ngài ( như là hiện thân của Đức Thánh linh ở lại để yên ủi và giúp đỡ chúng sinh ?)chính là 144.000 người này có ghi tên họ Ngài trên trán mình. Còn cho chắc chắn hơn, còn ghi cả tên “ông Ngoại, ông Nội “là Thiên-Chúa trên trán nữa! Ngai hóa-thân ĐẾN bằng phép mầu, thì Ngài hóa-thân LƯU-LẠI cũng bằng phép mầu! Có việc gì mà Đức Chúa Trời không làm được? (Ngày nay nhơn loại còn có thể cấy, mổ, cắt ở trong bụng bằng tia Lazer thi huống hồ gì kỹ-thuật của Đức Chúa Trời không hơn vạn lần như vậy sao!) Ta hãy xem câu Kinh-Thánh sau đây xem ý Chúa Giê-xu nói gì, có phải là Ngài ám-chỉ Ngài lưu-lại hậu-duệ để cứu nhân-loại chúng ta trong những ngày cuối-cùng trước ngày tận-thế và Ngài trở-lại?

Trong sách Giăng 21:18 Có một hôm Chúa Giê-xu tra hỏi Phê-rô đến 3 lần : “Anh yêu Thầy không? Phê-rô bực mình với Chúa đáp “Thì Thầy biết tôi yêu Thầy mà sao Thầy cứ hỏi hoài!” Nhân đó Phê-rô thấy người môn-đồ mà Chúa yêu, hôm tiệc ly đã nằm sát trên ngực Chúa lò-mò tới, nên dường như ganh tức, khó-chịu mới hỏi Chúa: “Còn “người này” về sau Thầy tính sao?” Chúa Giê-xu đáp: “Nếu ta muốn người cứ Ở CHO ĐẾN KHI TA ĐẾN (until I come, until I arrive) thì can-hệ gì đến anh?…Vậy có tiếng đồn ra trong vòng các anh em rằng người môn-đồ đó SẼ KHÔNG CHẾT. Nhưng Chúa Giê-xu không phải nói là KHÔNG CHẾT mà chỉ nói NẾU NGƯỜI CỨ Ở CHO TỚI KHI TA ĐẾN thì can-hệ gì tới Phê-rô đó thôi (tôi viết gọn lại cho sáng ý nên có thêm bớt đôi chữ). Trong 2.000 năm qua nhiều nhà thần-học không hiểu ý Chúa muốn nói gì về câu này! Phải chăng “môn-đồ” đó không chết, có nghĩa là SỐNG ĐỜI cho đến ngày Chúa trở lại trần-gian này! Hay là SỐNG QUA CON CHÁU và hậu-duệ của mình. Mà nếu hậu-duệ đó không có đặc-tính vô-nhiễm nguyên-tội của Chúa Giê-xu mầu-nhiệm ban cho thì sự sống đó cũng đâu có ý-nghĩa gì? Vậy thì phải chăng đó là 144.000 người trên núi Si-ôn kia ?( Prior of Sion, tên của Hội kín từ thế kỷ thứ 12)


9. PHÊ-RÔ VỀ GIÀ BỊ MA-QỦY DẮT ĐI LẠC ĐƯỜNG LÀM RÕ Ý-NGHĨA CÂU TRÊN ?

Xin nh
ớ cho là khi Chúa Giê-xu nói câu trên với Phê-rô thì ngay trước đó Ngài đã nói sấm-ngôn (tiên-tri) về cuộc đời của Phê-rô như sau:

“Quả thật, quả thật, Thầy nói cùng anh, khi anh còn trẻ, anh tự-mình thắt-lưng lấy MUỐN ĐI ĐÂU THÌ ĐI. Nhưng khi anh GIÀ, sẽ giơ bàn tay ra, NGƯỜI KHÁC thắt-lưng cho và DẪN ANH ĐI ĐẾN NƠI MÌNH KHÔNG MUỐN” (Giăng 21:18 và Kinh Thánh Tân-Ước Công-Giáo tại VN đã in rời câu này ra trên kinh-thánh, rất dễ thấy, không như của Tin-lành, in chìm trong trang giấy) Phải chăng vì câu này mà Đức Giáo Hoàng John Paul II đã viết quyển “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy-Vọng” ?ý nói nay là” ngày già” của Giáo hội Vatican ?

Phải chăng Chúa Giê-xu thấy trước qủy Sa-tan sẽ dẫn-dắt Giáo-Hội, Đạo-Chúa, Cơ-đốc-Giáo, Cải-Cách Giáo, Tin Lành Giáo hay là chính Vatican đi đến NƠI MÌNH KHÔNG MUỐN, nên Chúa Giê Su đã dự-phòng 144.000 hậu-duệ của Ngài để cứu Giáo-Hội và Đạo Chúa khỏi lầm-đường lạc-lối.

Sa-tăn đã chực sẵn trong vườn địa-đàng E-den để gạt bà E-va “Ăn Trái Cấm” để vướng vào nguyên-tội (ác-nghiệp). Nó lại chực sẵn trên núi nơi Đức Giê-xu lên để tuyệt-thực và cầu-nguyện 40 ngày trước khi xuống núi hoằng-pháp, cứu-độ chúng-sinh, rồi làm cho 3 môn-đồ yêu-qúy của Ngài phải hai lần ngủ-gục trong Vườn Ghet-se-ma-ne để làm nản lòng cho Chúa bỏ-cuộc khỏi phải lên thập-giá. Vậy thì Sa-tăn sao lại bỏ-cuộc nếu đánh-phá được Hội-Thánh Chúa hay Vatican trong những ngày cuối cùng của năm 2000 này? Nếu Vatican xem Đức Giáo-Hoàng là Tông-đồ Phê-rô ngày về già thì lời cảnh-cáo của Chúa Giê-xu với Phê-rô sẽ là chuyện không tránh được. Không lẽ Chúa Giê-xu đã hy-sinh xuống trần chết cho nhân-loại này mà lại để cho Sa-tăn là kẻ chiến-thắng cuối cùng? Chắc chắn Ngài đã có kế-hoạch và dự-phòng khác, và đó là hậu-duệ của Ngài còn sống-sót, lưu-lạc hay đang sống vững-chắc cho đến ngày cuối cùng ra tay để giúp-đỡ Hội-Thánh Chúa khỏi nanh-vuốt của Sa-tăn.------ Chúng ta thử tìm họ trong những hội-kín như là Templar Knights, Priory of Sion, Hội Mason Tam-điểm, Opus Dei hay những nơi thánh-thiện nào khác! (Ta thử hỏi tại sao trên đồng dollar Mỹ có hình kim-tự-tháp trên có mắt-Thần giống Đạo Cao-đài! Tại sao Hitler lại giết 6 triệu người Do-Thái, và đi tìm những Thiên-Linh-Ngọc U-rim và Thu-mim (Xuất 28:30) mà Thượng-đế đã trao cho Dân Do Thái xưa ?…)

10. ĐỪNG TIN NHỮNG NGUY-KINH (Gnostic Gospels) MA-QỦY NGỤY-TẠO

Đã có những chân-kinh của Thượng-đế hướng-dẫn cho nhân loại, thì cũng có những nguy-kinh do Sa-tăn (Hạ-đế) ngụy tạo. Vào những thế-kỷ đầu nhờ các bậc Thượng-phu của Cơ-đốc-giáo nghiền ngẫm Thánh-kinh nên họ đã chọn-lọc và phân-biệt được Chân-Kinh mà Công-Giáo, Cải-cách, Tin-lành đang dùng giống nhau. Khác với ngụy kinh gồm có Cựu Ước và Tân Ước.

Trong vũ-trụ có những lực-lượng chống-đối nhau. Nhưng cái ta biết thì một bên là Thiên-Chúa và một bên là Ma-qủy, hay Sa-tan. Mỗi bên đều tạo ra những kinh-điển cho chúng-sinh dùng. Có chân thì có nguy. Vì vậy mà thử-nghiệm đầu-tiên Thượng-đế đặt-để trong vườn địa-đàng cho chúng-sinh lựa- chọn một cách TỰ-DO, đó là NÊN hay KHÔNG nên “ĂN” “Trái-Cấm” để loài-người nhận-thức khả-năng phân-biệt được Thiện và Ác của mình. Và nay là lúc chúng sinh phân-biệt được chân-kinh và nguy-kinh, một sự lựa-chọn mà suốt dòng lịch-sử nhân-loại luôn luôn phải đương đầu..

Cho nên 2000 năm trước khi chân-kinh được viết bởi các môn-đồ của Chúa Giê-xu, thì Sa-tăn cũng thấy xa là sẽ ngụy-tạo Phúc-Âm Knostic (Tin Chúa Giê-xu bằng kiểu Minh Triết) lan tràn trong 2 thế-kỷ đầu tại Vùng Địa-Trung-Hải để đối-đầu lại với Phúc-Âm của Chúa Giê-xu. Lịch sử cho thấy Phúc-Âm Cơ-đốc-giáo hủy diệt Phúc-Âm Gnostic hay đề cao phụ-nữ và đời-sống tinh thần nhiều hơn. Những sáng-lập của Gnostic này được khám phá là con-cháu của dòng-dõi Ca-in, người đã giết em mình trong thời ra khỏi Vườn Địa Đàng. Có lần Đức Giê-xu đối mặt với dòng dõi này và đã kêu đích-danh nó ra chửi: (Giăng 8:44 “Các ngươi bởi cha mình, là ma-qủy mà sanh ra, và các ngươi muốn làm nên sự ưa-muốn của cha mình. Vừa lúc ban đầu, nó (Ca-in) đã là kẻ giết người…. Nó (Sa-tăn) vì là vốn nói-dối và là cha của sự nói-dối”. Vì Sa-tăn nay đã dụ-dỗ bà E-va và đã “ăn phải trái-cấm” (tức là bị nó lấy, ăn-nằm với Sa-tan, nên đã vướng vào nguyên-tội là vậy). Ca-in là đứa con lai, nửa máu Trời và nửa máu Qủy do Eva sanh ra sau khi lấy con rắn là Sa tăn.. Nên nó đã giết em nó là A-bên, vì A-bên mang máu của A-dam nhưng vẫn bị mang máu “có tội” của mẹ mình rồi. (Vì vậy mới có câu: “Dầu một người “vô-tội”cũng không”, có nghĩa là như vậy).

Nhưng dòng-dõi Ca-in của Qủy này vẫn cố-tình cải chày cải cối: “Chúng tôi chẳng phải là con ngoại-tình (ý nói Ca-In là tổ-phụ không phải có cha là Sa-tan), chúng tôi chỉ có một Cha là Đức Chúa Trời” (Đoạn 8 câu 41). Chính nhóm này mới là tổ-phụ của nhóm Gnostic, và đã viết ra các ngụy kinh.


SẼ CÒN RẤT NHIỀU NGỤY-KINH VÀ BẰNG-CHỨNG KHOA-HOC ĐƯỢC TÌM-THẤY.

Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học, các môn về khảo-cổ, điện-toán, hóa-học, địa-chất, Lazer, không ảnh …nhân-loại sẽ còn phải đối-đầu với rất nhiều khám-phá mới về lịch-sử tôn-giáo,về bằng chứng khoa-học có thể làm lung-lay đức-tin của người tín-đồ, nhất là Ky-tô-giáo. Nếu chúng ta không open mind,(phá chấp) mở rộng niềm tin về những CĂN BẢN DUY-BÁC-ÁI của Cơ-đốc-giáo, thấu hiểu những “bí mật” trong Thánh-kinh theo nhãn quan của khoa-học của Thiên Niên Kỷ thứ 3 này, mà vẫn còn ôm lấy những “đức-tin” mù-quáng của 2,000 năm trước, e rằng sẽ có nhiều ngươi trong chúng ta sẽ “bỏ đạo”. Ngày nay Thiên Chúa đã cho trí-óc chúng ta khám-phá được những kỹ-thuật mới, như là cloning, cấy tế-bào gốc, internet, điện-toán, DNA, digital memories, vệ-tinh viễn-thông,khám phá vũ trụ không gian, y-khoa v.v…mà Thánh Kinh đều đã nói trước cả, để chúng ta biết rằng chúng ta nguyên gốc là đến từ Trời, từ trong vũ-trụ xa xôi,và “nhân loại” chúng ta trải qua hàng tỷ tỷ năm của tiên-hoa dưới sự quan-phòng của Thượng-Đế, thì những chuyện như là Người Trời có truyền-giống trên trái-đất này vì mục-đích Ngài muốn cứu-vớt chúng-sinh khỏi đại-họa nguyên-tử gây ra do chính lòng tham của mình, thì cũng là điều đáng cho chúng ta cảm-ơn Ngài là Cha Trời của Vũ-Trụ Càn-Khôn vậy thôi.

Mục sư Nguyễn Quang Minh
Little Saigon, California 18 May 2006
nguyenquangminh1@aol.com

ThichNuDiuHien
28-06-2006, 09:51
Đọc trên mạng thấy có bài này góp với bác Thích để gọi là có xuôi, có ngược
Có lẽ xin mượn bài Kinh Hòa Bình để tổng kết mọi dư luận của người Công Giáo về Tác phẩm The Da Vince Code: Đó là Sự Tha Thứ !

Kinh Hòa Bình

Lạy Chúa từ nhân!
Xin cho con biết mến yêu
Và phụng sự Chúa trong mọi người.
Lạy Chúa xin hãy dùng con
Như khí cụ bình an của Chúa,
Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù,
Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục,
Ðem an hòa vào nơi tranh chấp,
Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan,
Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng,
Ðể con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm,
Ðem niềm vui đến chốn u sầu.
Lạy Chúa xin hãy dạy con:
Tìm an ủi người hơn được người ủi an,
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết,
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh,
Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân,
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ,
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con,
Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình.
http://img451.imageshack.us/img451/3873/franciscrusifixlow25fc.jpg
Thánh Francis of Assisi người dạy kinh hòa bình và có lẽ không người Công giáo VN nào lại không biết bài hát này do cha Kim Long sáng tác !

Giờ đây mời các bạn cùng tham gia:
Chuyện bên lề của ... bên lề:
MONA LISA NÀNG LÀ AI ?
I. Sự trở về của một kiệt tác

http://img453.imageshack.us/img453/5181/a501d8nm.png
Bức chân dung nổi tiếng Mona Lisa của hoạ sĩ thiên tài người Italy Leonardo da Vinci, được vẽ vào năm 1503 và được trưng bày tại bảo tàng Louvre ở Paris, thường xuyên gây được sự chú ý đặc biệt. Nó cũng là mục tiêu của những vụ trộm tranh, trong đó có sự cố đầu thế kỷ XX, được kể lại ở đây.
Ngày 21/8/1911, Viện bảo tàng Louvre cũng như nhiều viện bảo tàng nghệ thuật khác ở Paris đều đóng cửa. Ở bên trong toà nhà chỉ còn lại những chuyên gia phục chế và một số nhân viên quét dọn các phòng. Vincenzo Perugia, hoạ sĩ trang trí, 30 tuổi người Italy, mặc chiếc áo blu đồng phục, đủng đỉnh đi dạo từ phòng này sang phòng khác. Y mới làm việc trong Viện bảo tàng này ít lâu, nhưng hầu như đã thuộc lòng tất cả các bức tranh được trưng bày. Hôm đó, y theo dõi các nhân viên phục vụ và chờ cho đến khi nào họ rời khỏi phòng trưng bày bức Mona Lisa hay La Joconde. Nụ cười tủm tỉm đầy sức mê hoặc của nàng đã làm y say đắm. Tác giả đã truyền vào bức chân dung ấy sự trong trắng, vẻ dịu dàng của người phụ nữ. Báo chí đã ca ngợi rằng đó là kiệt tác độc nhất vô nhị của nghệ thuật thế giới, giá không dưới một triệu USD.
Chính những thông tin tương tự đã thúc đẩy Vincenzo và những kẻ đồng mưu là hoạ sĩ I.Sadro và tên đại bợm chuyên nghiệp Eduard, kẻ đã từng âm mưu đánh cắp bức tranh La Joconde. Chúng đến Viện bảo tàng theo định kỳ để quan sát bức tranh. Treo trước mặt chúng là một bức chân dung lồng trong chiếc khung gỗ có chạm trổ, được phủ một lớp đồng, khổ 70x53cm. Bức tranh đó quả thực có sức thôi miên mãnh liệt. Hôm ấy phòng tranh không một bóng người. Toàn bộ thao tác tháo bức tranh khỏi khung và cuộn lại, Vincenzo làm trong nháy mắt. Chiếc khung y dựng vào một góc xa. Giấu bức tranh vào dưới áo blu, y thong thả quay ra, thay quần áo rồi ung dung bước ra ngoài phố. Hai kẻ tòng phạm đang đợi y ở một góc phố gần đó.
Việc mất bức tranh được phát hiện ngay hôm sau. Kẻ đánh cắp Mona Lisa nhanh chóng được xác định. Nhân viên của Viện bảo tàng, hoạ sĩ trang trí Vincenzo, đã biến mất. Giám đốc Viện bảo tàng đề nghị cảnh sát tổ chức cuộc truy lùng tội phạm trên quy mô rộng rãi, không chỉ ở Paris và trên toàn lãnh thổ nước Pháp, mà còn ở bên ngoài biên giới. Nhiều hoạ sĩ, nhiều nhà phục chế bị dò hỏi, tất cả các viện bảo tàng lớn và các nhà sưu tập tư nhân đều được cảnh báo. Ngày tháng cứ trôi qua, nhưng tung tích bọn trộm tranh vẫn bặt vô âm tín. Từ Đức, Italy, Tây Ban Nha không có tin tức gì về bức tranh bị đánh cắp. Báo chí nhất loạt miêu tả tỉ mỉ vụ mất trộm này. Trong một chốc lát, họa phẩm đó đã trở thành lừng danh thế giới. Trên báo chí đã xuất hiện những tấm ảnh của kẻ trộm Vincenzo và của bức tranh bị đánh cắp. Người ta đặt tiền thưởng cho những ai tìm ra tung tích của kẻ trộm tranh.
Ngày tháng trôi qua, câu chuyện về vụ đánh cắp bức tranh của Leonardo da Vinci đã chìm vào quên lãng, mặc dầu cảnh sát vẫn tiếp tục lùng sục Mona Lisa ở châu Âu. Họ không mảy may ngờ rằng kiệt tác này đã được đưa sang bên kia đại dương. Từ tháng 8/1911 nó đã nằm trên đất Mỹ.
Qua báo chí những kẻ trộm tranh biết đang bị truy lùng khắp châu Âu, và chúng quyết định đưa hoạ phẩm vượt đại dương. Đến New York chúng bắt đầu đi khảo giá. Chính ở đây Vincenzo đã nảy ra ý định mang lại cho cả nhóm một khoản tiền kha khá: chép lại Mona Lisa rồi đem bán, coi như nguyên tác. Một nhà sưu tầm Mỹ, tỷ phú John Morgan đã đồng ý mua lại khi Vincenzo nói sẽ bán cho ông bức tranh đã đánh cắp từ Viện bảo tàng Louvre. Morgan cũng đã nghe phong thanh về vụ này, lúc đầu không tin, nhưng sau một thời gian đắn đo suy nghĩ, ông ta đã đồng ý mua với giá 300.000 USD. Ngày hôm sau bức tranh được trao cho chủ mới và mỗi tên kiếm được 100.000 USD. Nhà sưu tầm hý hửng vì mua được của quý với giá rẻ bất ngờ. Ông ta không thể ngờ rằng năm "nguyên bản" như vậy cũng được bán cho các nhà sưu tầm khác. Tổng cộng nhóm trộm đã vớ được gần 2 triệu USD - một khoản tiền khổng lồ thời điểm bấy giờ. Và tất cả những ông chủ của bức tranh Mona Lisa "bị đánh cắp" đều im như thóc.
Nhưng điều đáng chú ý nhất là nguyên bản vẫn chưa được bán. Thoạt tiên không có người mua vì Vincenzo đặt giá quá cao. Sau đó y quyết định không bán bức tranh nữa bởi lẽ y cho mình là chủ sở hữu có toàn quyền đối với bảo vật này. Chính điều đó đã làm dấy lên sự bất bình giữa những kẻ tòng phạm. Những cuộc cãi lộn bắt đầu, không ai thích chép tranh nữa. Thấy vậy Vincenzo bèn nghĩ cách đánh bài chuồn và đem theo nguyên tác trở về Italy.
Y dọn đến ở Como, một tỉnh nằm ở phía Bắc Italy và tại đây, y quyết định bán bức tranh. Y viết một bức thư gửi Gheri, nhà sưu tầm nổi tiếng ở Florence, ngỏ ý muốn bán bức Mona Lisa đích thực với giá nửa triệu Franc và ký tên là hoạ sĩ Leonardi ở Paris. Ghêri từng biết vụ mất bức tranh ở Bảo tàng Louvre nên lập tức sinh nghi và trình cảnh sát bức thư ấy. Cảnh sát đề nghị ông tiếp tục trò chơi với Leonardi và khuyên nên dùng kế điệu hổ ly sơn: mời Leonardo tới Florence để cho xem bức tranh. Vincenzo hý hửng liền đến ngay Florence và ở tại khách sạn Tripoli.
Đến dự buổi tiếp xúc với "hoạ sĩ tới từ Paris" trên thực tế còn có Bộ trưởng Nghệ thuật của Italy tên là C.Risi, một người rất sành về hội hoạ và rất am hiểu sáng tác của Leonardo da Vinci. Trong phòng bên cạnh, cảnh sát đã mai phục sẵn. Risi khi nhìn thấy bức tranh đã thốt lên một câu vốn là mật hiệu được quy ước từ trước: "Không còn nghi ngờ gì nữa! Đích thị là bản gốc rồi". Cảnh sát lập tức xông vào phòng, công bố lệnh bắt hoạ sĩ Leonardi về tội đánh cắp bức tranh Mona Lisa của Viện bảo tàng Louvre ngày 21/8/1911.
Ngày 20/12/1913, một thông báo đặc biệt về hiện vật được tìm thấy cuối cùng đã nằm trên bàn các thám tử Pháp.
Khi cảnh sát thẩm vấn, Vincenzo cố ý thanh minh cho hành động của mình bằng cách khẳng định rằng y không đánh cắp, rằng mục đích của y không phải là kiếm chác mà là mong muốn trả lại cho nhân dân Italy của mình tác phẩm của người đồng hương vĩ đại mà hoàng đế Napoleon, kẻ xâm lăng vốn bị y căm ghét, đã mang về Pháp làm chiến lợi phẩm. Y nói rằng, nếu như kẻ đi nô dịch các dân tộc đồng thời là kẻ cướp Napoleon được coi là anh hùng, thì y, Vincenzo, không thể là tên tội phạm. Song y bị tống giam và bức tranh được hoàn cho Bảo tàng Louvre. Nó lại được treo ở đúng vị trí cũ cách đó hai năm. Từ đây, để bảo vệ bức tranh, người ta đã áp dụng những biện pháp đặc biệt: được che chắn bởi một tấm kính dày có gắn tín hiệu báo động.
II. GIẢI THÍCH CỦA DAN BROWN VỀ BỨC HOẠ MONA LISA
Mona Lisa – hay còn một cái tên khác La Joconde, chỉ là một bức tranh khổ 78cm x 53cm bé hơn cả tấm áp phích in hình Mona Lisa bán ở quầy lưu niệm bảo tàng Louvre.
Bức tranh được treo ở bức tường phía tây bắc căn phòng Salle des Etats, đằng sau tấm plexiglass bảo vệ dày 5cm.

http://img489.imageshack.us/img489/7446/8de50bv.jpg
Tranh được vẽ trên một tấm ván gỗ bạch dương, không khí thần tiên, đầy sương giăng mờ ảo của nó là sự điêu luyện của Leonardo Da Vinci về phong cách sfumato, trong đó các hình thể dường như hoà tan vào nhau.
Dan Brown – thông qua Langdon, nhân vật chính trong truyện DVC cho rằng cái tên Mona Lisa chính là sự đảo từ của hai chữ sau:
Mona = AMON : Tên vị thần biểu tượng cho sự phồn thực nam.

Amon quả thực được tượng trưng bởi hình một người đàn ông có đầu cừu đực, và thói giăng hoa bừa bãi cùng với cặp sừng cong của vị thần này liên quan đến một từ lóng chỉ về quan hệ tình dục trong thời kỳ hiện đại của chúng ta “cứng sừng” – DVC trang 138
Lisa = L’ISA: Tên tượng hình cổ của nữ thần phồn thực ISIS.
Và như vậy Mona Lisa chính là một người ái nam ái nữ (Leonardo Da Vinci cũng là người đồng tính luyến ái)

Thực tế, bức tranh Mona Lisa là một trong những giai thoại giàu tư liệu nhất thế giới. Rất nhiều tư liệu kết hợp những từ ngữ nước đôi và những câu bóng gió bỡn cợt về bức tranh đã được tiết lộ trong hầu hết các tập sách lịch sử nghệ thuật, thế nhưng khó tin thay, công chúng nói chung vẫn cho rằng nụ cười của nàng chứa đựng một bí ẩn lớn lao – trích từ DVC trang 136

Da Vinci là một người thích chơi khăm và những phân tích trên máy tính giữa Mona Lisa và các bức chân dung tự hoạ của Da Vinci khẳng định những điểm tương đồng đáng kinh ngạc giữa hai khuôn mặt này – DVC trang 138
:cool2: :cool2: :cool2:
(Còn tiếp)

DongTroi.com
30-06-2006, 14:39
Tóm lại Dan Brown chỉ là một kẻ lợi dụng cơ hội viết truyện giật gân để nổi tiếng và thu lợi, bất chấp mọi giá trị nhân văn của giáo lý.
Hắn thừa biết Davinci đâu có sống lại để giải thích rằng trong tranh của ông có mật mã gì không
Những người có đức tin không dễ gì lung lai với những câu truyện nhãm nhí đó
Bất kể là Công giáo, Hồi giáo, Phật giáo..."Đạo" là con đường tin thần chân chính mà bất cứ ai cũng phải theo: Sống đạo đẹp đời. Đó là giá trị tinh thần mà ai cũng cần phải có song song với đời sống vật chất.

redhorse
01-07-2006, 01:49
em có cảm giác 2 bác Thích và dly đăng bài nhừng kiến thức cơ bản về Thiên Chúa Giáo thì hình như rất ít, các kiến thức về lịch sử và xã hội thì em không noi nhưng hình như về mặt tôn giáo thì 2 bác đây nắm không rỏ phải không

ThichNuDiuHien
01-07-2006, 09:17
em có cảm giác 2 bác Thích và dly đăng bài nhừng kiến thức cơ bản về Thiên Chúa Giáo thì hình như rất ít, các kiến thức về lịch sử và xã hội thì em không noi nhưng hình như về mặt tôn giáo thì 2 bác đây nắm không rỏ phải không
Xin nói rõ:
1/Diễn đàn tin học không phải là nơi bày tỏ chính kiến hoặc tranh luận về Chính trị, Tôn giáo. Thread: Mật mã Da Vince chuyện bên lề vì vậy cũng không phải là chủ đề để members tranh luận. Các bài viết của TNDH là những bài được tổng hợp từ nhiều nguồn, post lên chỉ nhằm mục đích cung cấp thêm thông tin cho những ai không có nhiều thời gian tìm hiểu về nó (tác phẩm và dư luận)trên mạng. Mọi chỉ trích, phê phán về tác phẩm, tác giả xin các bạn "bày tỏ" trên những website khác.
2/ Tôi rất mong được các bạn chỉ giáo thêm về "những kiến thức cơ bản về Thiên Chúa Giáo" và được "chỉ rõ hơn về mặt tôn giáo" nhưng không phải ở trên diễn đàn này. Hãy cho tôi địa chỉ để tôi tìm đến học hỏi các bạn !
3/ Cuối cùng tôi xin trích dẫn lại đoạn cuối bài viết của Lữ Giang (post ở trang đầu) mà tôi cho rằng rất xác đáng:

Henri Lacordaire nói: “La réligion, fut-elle fausse, est un élément necessaire à la vie d’un people.” Tôn giáo, dù nhảm nhí chăng nữa, vẫn là một yếu tố cần thiết cho một dân tộc. Vì thế, không bao giờ nên bổ báng nó
4/ Nếu những gì tôi viết ở trên, các bạn vẫn chưa hiểu, chưa thỏa mãn xin bạn hãy cùng tôi hát bài Kinh Hòa Bình. Ta bắt đầu nhé:
Lạy chúa từ nhân...
Mến !
http://img230.imageshack.us/img230/4321/henry3ig.jpg

hoxulee
03-07-2006, 20:03
Và Chúa đã tạo máy tính, internet cho chúng ta

chanhmanly
03-08-2006, 14:39
wả thật đây là 1 bộ fim hư cấu dựa trên nhữg sự việc có thật, tất cả dc chắp nối lại theo 1 logic mà fải nói là rất tài tình,tuy nhiên sự thật vẫn là sự thật và bộ film thành côg ở chỗ đã đánh đúg vào sự tò mò và hiếu kỳ của con người trước nhữg sự việc mà họ ko thể kiểm chứg = tai nghe mắt thấy ( hehehe )