PDA

View Full Version : Một ví dụ của sự "ngu dốt" của...doanh nhân Việt.



MARKYMUI
20-11-2009, 16:03
Nói từ " ngu dốt " để nói về các bác doanh nhân thì thật ngại miệng, vì mình cũng chẳng bằng ai. Nhưng ấm ức cái vụ người Việt ko chịu sài hàng Việt của doanh nghiệp Việt từ khi biết cái khái niệm FOB, CIF....từ lâu lắm rồi, nên khi đọc được bài này thì share cho anh em & gắn thêm cái từ " ngu dốt" vào giới doanh nhân cho hả dạ.
Trước khi đọc bài, mình mạn phép ghi lại rõ một số khái niệm về giá để mấy bạn dễ theo dõi:

FOB: Giao lên tàu ( freight onboard)
CFR: Tiền hàng và cước ( cost & freight)
CIF: Tiền hàng, bảo hiểm và cước ( cost, insurance, freight)

-----quote-----
Bài học từ một hợp đồng nhập khẩu
LS Võ Nhật Thăng - Trọng tài viên VIAC

Các DN XNK VN cần mạnh dạn chuyển sang mua FOB bán CIF thay cho thực tế là đại bộ phận hợp đồng đều mua CIF bán FOB. Bởi lẽ, khi phía VN mua hàng theo điều kiện CIF hoặc CFR thì người bán nước ngoài sẽ tìm thuê những con tàu nhiều tuổi, lai lịch không rõ ràng với giá cước thấp. Câu chuyện dưới đây là minh chứng.

Cuối năm 2006 một DN ở Hà Nội nhập lô hàng thức ăn chăn nuôi trị giá 1.400.000 USD, từ một Cty ở Singapore theo điều kiện CFR-Incoterms 2000, cảng TP HCM và Hải Phòng. Người bán đã mua hàng này của nhà sản xuất ở Ấn Độ. Hai bên đã nhanh chóng giao kết hợp đồng mua bán. Trong các điều khoản về vận tải, không có điều nào đề cập về tình trạng pháp lý của con tàu cũng như chủ tàu. Theo điều kiện CFR, người bán đã thuê tàu PLJ của chủ tàu BJS ở Hong Kong chở lô hàng về VN. Sau khi tàu PLJ rời cảng xếp hàng, người bán nhanh chóng chuyển vận đơn cùng bộ chứng từ cho người mua và nhận đủ tiền hàng theo phương thức thanh toán bằng L/C. Nhưng 4 ngày trước khi tàu PLJ cập cảng VN, khi đang đi qua eo biển Malaysia, tàu bị cảnh sát Malaysia bắt giữ vì có bằng chứng đây là con tàu của một chủ tàu Indonesia bị hải tặc cưỡng đoạt 4 năm trước.

Ngay lập tức người bán thông báo cho người mua biết vụ việc. Họ giải thích rằng họ đã nhận đủ tiền bán hàng và phía người mua cũng đã nhận đủ bộ chứng từ hợp lệ, điều này cũng đồng nghĩa là họ đã hoàn thành mọi nghĩa vụ giao hàng và về măt pháp lý họ không chịu trách nhiệm về hậu quả xảy ra vì theo điều kiện CFR rủi ro về hư hỏng mất mát hàng hoá đã chuyển tư người bán sang người mua kể từ khi hàng qua lan can tàu ở cảng xếp hàng. Phía người mua ngay lập tức phản đối lập luận của người bán và yêu cầu họ phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Tuy vậy khi đọc lại hợp đồng mua bán không thấy có quy định nào buộc người bán phải bồi thường trong trường hợp này. Cũng có ý kiến cho rằng cần làm việc với hãng bảo hiểm để đòi bồi thường (lô hàng được mua bảo hiểm của BMI và BVI ở VN). Tuy nhiên phía bảo hiểm khẳng định theo điều kiện bảo hiểm ICC 1982 (Institute Cargo Clauses 1982, Mục 6.2, Điều khoản miễn trừ) phía bảo hiểm được miễn mọi trách nhiệm trong trường hợp hàng hoá bị hư hỏng, mất mát khi tàu bị bắt giữ. Một số ý kiến khác lại cho rằng cần nhanh chóng khởi kiện hãng tàu để đòi bồi thường. Tuy vậy theo Bộ luật hàng hải VN (Điều 78, Khoản 2, Mục g) cũng như thông lệ quốc tế (Công ước Hague-Visby Rules, Quy tắc IV, Khoản 2, Mục g) người vận chuyển cũng được thoát trách nhiệm đối với tổn thất hàng hoá xảy ra trong trường hợp tàu bị bắt giữ.

Một điều đáng lưu ý là bản thân chủ tàu BJS cũng chỉ sở hữu duy nhất một con tàu này, nếu thắng kiên thì chủ hàng VN cũng chỉ có trong tay một bản án đẹp. Không còn lựa chọn nào khác, phía người mua đành trao hết mọi giấy tờ có liên quan và uỷ quyền cho người bán thay mặt mình làm việc với các cơ quan hữu quan của Malaysia để nhanh chóng thuê một con tàu khác dến cảng Johore, nơi tàu bị cầm giữ, lấy hàng về. Phía người bán đã khẩn trương tích cực tìm mọi biện pháp tiếp cận với các cơ quan hữu quan của Malaysia để cho phép chủ hàng đưa một con tàu khac đến cảng nói trên chuyển tải hàng về VN dù biết rằng rủi ro và chi phí bỏ ra để làm việc này không ít. Tuy vậy trong thời gian tàu bị bắt giữ tại cảng Johore liên tiếp xảy ra ba sự kiện khác làm cho vụ việc vốn đã phức tạp lại càng phức tạp thêm: Một vụ nổ xảy ra ở trên tàu làm một số thuỷ thủ bị thương, trong đó có một người bị thương nặng có khả năng tử vong. Tiếp đó, tàu này lại bị một tàu chở dầu đâm phải làm nảy sinh nhiều vấn đề pháp lý khác khá phúc tạp liên quan tới chế định hai tàu đâm va cùng có lỗi (both to blame collision), chưa kể cùng một con tàu nhưng có hai lệnh bắt giữ của hai toà án: toà thứ nhất bắt giữ tàu theo yêu cầu của chủ tàu cũ Indonesia, toà thứ hai lại lật ngược trát của toà án trước và ra lệnh bắt giữ theo yêu cầu của chủ tàu BJS ở Hong Kong. Cuối cùng vụ việc lại rơi vào tình trạng bế tắc và vô cùng nan giải khi chính quyền cảng sở tại yêu cầu nếu muốn đưa tàu khác đến chuyển tải hàng về VN thì phải đặt cọc bảo lãnh chống ô nhiễm môi trường với trị giá 20 triệu USD. Rõ ràng đây hoàn toàn là một thách đố, do vậy cả hai phía sau gần một năm tìm cách giải quyết vụ việc cuối cùng đành bỏ cuộc vì toàn bộ lô hàng cũng đã bị hư hỏng gần hết.

Vấn đề ở đây là khi soạn thảo hợp đồng phía người mua VN đã bỏ sót không đưa thêm một điều khoản quy định về tình trạng pháp lý của con tàu tham gia chuyên chở lô hàng. Điều khoản đó rất ngắn gọn như sau: "Người bán bảo đảm rằng con tàu do mình thuê không được dính líu tới bất cứ rắc rối, tranh chấp, khiếu nại, kiện tụng nào trong quá trình thực hiện hợp đồng". Với điều khoản này rõ ràng vị thế pháp lý của người mua trong việc đấu tranh đòi bồi thường có khả năng thoả đáng hơn khi người bán thuê những con tàu kiểu như trên. Quả thật đây là một bài học quá đắt giá trong những trường hợp tương tự như trường hợp này.

Từ vụ việc này các DN xuất nhâp khẩu VN cũng cần mạnh dạn chuyển sang mua FOB bán CIF thay cho tinh trạng hiện nay là đại bộ phận hợp đông đều mua CIF bán FOB. Bởi lẽ,khi phía VN mua hàng theo điều kiện CIF hoăc CFR như trên thì người bán ở nước ngoài sẽ tìm thuê những con tàu nhiều tuổi,l ai lịch không mấy rõ ràng với giá cước thấp để nâng cao lợi nhuận. Ngược lại, nếu chuyển sang mua theo điều kiện FOB những lô hàng như trên đây người mua phía VN có nhiều cơ hội và khả năng kiểm soát được các điều kiện về hợp đồng thuê tàu nói chung và tình trạng pháp lý của con tàu và chủ tàu nói riêng.

Vấn đề nữa đặt ra là cần có sự liên kết phối hợp chặt chẽ giữa DN kinh doanh XNK và DN vận tải biển để làm tốt khâu này. Các cơ quan quản lý nhà nước hữu quan cũng cần có những biện pháp khuyến khích hỗ trợ để các DN xuất nhập khẩu chuyển mạnh sang mua FOB bán CIF. Đây cũng sẽ là một biện pháp chủ động để tăng thị phần của đội tàu VN trên thị trường hàng hải khu vực và quốc tế.

[=========> Bổ sung bài viết <=========]

Dưới đây là thông tin từ một bác làm bảo hiểm một số hàng trên tầu này :
--------

Tàu mà LS Võ Nhật Thăng đề cập dưới đây là tàu PAULIJING.

Tàu này chở tổng cộng 6.600 MT Khô đậu tương và Khô hạt cải hàng rời của 12 chủ hàng Việt Nam, khởi hành từ Kandla, India vào ngày 11/08/2005 để đi trả hàng tại cảng Tp. Hồ Chí Minh và Hải Phòng.

Ngày 23/08/2005 trong khi hành trình qua lãnh hải Malaysia, tàu PAULIJING đã bị cảnh sát Malaysia bắt giữ và đưa về neo đậu tại vùng neo đậu thuộc cảng Tanjiong Pelepas, Johore, Malaysia theo lệnh của Tòa án bang Johore, Malaysia do có đơn kiện về quyền sở hữu tàu.

Trên tàu này PJICO có bảo hiểm 1 lô hàng 900 MT Khô đậu tương của Cty Vinh An; và cũng như Bảo Việt, Bảo Minh chúng tôi đã từ chối bồi thường do lô hàng bị tổn thất là do hậu quả của việc (tàu) bị cầm giữ (Detainment), xảy ra trong quá trình vận chuyển - Rủi ro thuộc loại trừ bảo hiểm đã được quy định tại Tiết b, Khoản 1, Điều 6, Chương III Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển.

Cũng liên quan đến vấn đề thuê tàu già, có lý lịch không bảo đảm mà hiện nay khoảng 6 doanh nghiệp Việt Nam đang có nguy cơ mất trắng 2 triệu USD cho lô hàng 11.650 MT Bã hạt cải chở trên tàu BULK ENERGY - Dự kiến giao hàng ngày 02/07/2009 nhưng hiện nay vẫn không có tin tức gì.
-----
Bác nào quan tâm về XNK thì có thể vào trang sau để biết thêm
http://vietship.vn/showthread.php?t=3430

chinhngon
20-11-2009, 17:05
Tôi chưa đọc bài này. Nhưng lúc nào cũng nghe nhà nước khăng khăng khuyến khích Dân việt nam dùng hàng việt nam. Vậy thử hỏi hàng có chất lượng không mà dùng, Có đảm bảo nhu cầu sức khỏe không. Vậy mà còn nghe pác nào so sánh với nước Nhật vì người Nhật dùng hàng Nhật,thật là dở hơi quá.

MARKYMUI
21-11-2009, 09:56
Tôi chưa đọc bài này. Nhưng lúc nào cũng nghe nhà nước khăng khăng khuyến khích Dân việt nam dùng hàng việt nam. Vậy thử hỏi hàng có chất lượng không mà dùng, Có đảm bảo nhu cầu sức khỏe không. Vậy mà còn nghe pác nào so sánh với nước Nhật vì người Nhật dùng hàng Nhật,thật là dở hơi quá.

Ở bài trên mình muốn nói tại sao các doanh nghiệp Việt ko chủ động nhập giá
FOB ( nôm na là giá tại cảng xuất) và xuất giá CIF ( nôm na là bán tại cảng thằng mua), Vì như vậy mình vừa tránh được rủi ro tàu vận chuyển có nguồn gốc ko rõ ràng/ hoặc kém chất lượng vừa có thể chủ động mua Bảo Hiểm của các cty Bảo Hiểm Việt Nam, lựa chọn các hãng tàu Việt Nam để chở hàng.
Về vấn đề chất lượng hàng hóa như bạn nói thì hàng hóa ở đây là chất lượng dịch vụ bảo hiểm, chất lượng dịch vụ chuyên chở.Nó hoàn toàn khác chất lượng hàng tiêu dùng.
Cho bạn thêm thông tin, Các hãng tàu nước ta ko thiếu tàu viển dương & nước ta cũng đã có cảng dư sức đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng quốc tế, nhưng vấn đề tiếp cận các doanh nghiệp Việt khá khó khăn, do thói quen mua giá CIF, bán FOB của mình. Các thủ tục liên quan đến vận chuyển/ thanh toán quốc tế cũng ko khó khăn gì thông qua các đại lý hãng tàu ( Forwarder),dịch vụ ngân hàng.