PDA

View Full Version : Mối lo đào tạo nhân lực CNTT cho thị trường Nhật Bản



meomeomeo2008
22-02-2008, 11:27
Thị trường phần mềm nội địa với quy mô khổng lồ đã khiến các doanh nghiệp Nhật Bản luôn nằm trong tình trạng thiếu hụt nhân lực, phải đi tìm sự bù đắp từ bên ngoài, chủ yếu là từ thị trường Trung Quốc.

http://fpt.edu.vn/images/VanHoa15-02-08_pic1_large.gif

Trước thực trạng này, nếu sớm có bước đột phá về số lượng và chất lượng trong đào tạo nhân lực CNTT thì Việt Nam sẽ mau chóng trở thành thị trường outsourcing lý tưởng trong mắt các doanh nghiệp Nhật Bản.

Có thể thấy trong tương lai không xa, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành thị trường gia công phần mềm lớn cho Nhật Bản, bởi đến nay nhiều doanh nghiệp CNTT của Nhật như NEC và Hitachi đều có xu hướng chọn Việt Nam làm thị trường outsourcing số một. Hiện tại, Việt Nam đang chiếm 15% tổng outsourcing của NEC và 26% đối với tập đoàn Hitachi. Con số này chắn chắn sẽ còn tăng mạnh trong tương lai và là triển vọng lớn cho ngành phần mềm của nước ta, đồng thời cũng là bài toán đặt ra cho ngành đào tạo CNTT, khi mà số lượng và chất lượng nhân lực CNTT Việt Nam vẫn chưa đủ đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là về khả năng ngôn ngữ và kỹ năng.

Vượt rào cản ngôn ngữ

Tại hội thảo diễn ra trong Ngày CNTT Việt - Nhật mới đây tại Hà Nội, các ý kiến đưa ra đều cho rằng vấn đề ngôn ngữ là trở ngại đầu tiên khiến nhân công Việt Nam khó có thể vào làm việc trong các công ty của Nhật. Hiện nay hầu hết các trường học ở Việt Nam đều dạy ngoại ngữ tiếng Anh, chỉ những người đã từng du học tại Nhật hoặc học ở các trường ngoại ngữ chuyên khoa tiếng Nhật thì mới biết tiếng Nhật.

Như vậy, số người biết tiếng Nhật ở Việt Nam không nhiều, còn số người làm về CNTT mà biết tiếng Nhật, thông thạo tiếng Nhật lại càng hiếm hoi. Hơn nữa, tiếng Nhật lại là một ngôn ngữ tương đối khó học, theo thống kê chưa chính thức thì ở Việt Nam trong vòng 5 năm (từ 2000-2005), chưa có đến 100 người đỗ cấp độ 1 (cấp độ cao nhất trong tiếng Nhật), hầu hết họ là giáo viên, du học sinh hoặc sinh viên học đại học tiếng Nhật từ 4 năm trở lên. Để tìm được số lập trình viên có trình độ tiếng Nhật đạt cấp độ cao thì quả là… đếm trên đầu ngón tay, trong khi thị trường Nhật rộng mở, cần tới hàng chục nghìn người.

Đại diện của Công ty Sáng tạo cho biết, đối với các lập trình viên tối thiểu phải có trình độ tiếng Nhật cấp độ 2, có ít nhất 3 năm làm việc trong lĩnh vực IT thì mới đạt là lập trình viên cầu nối tại công ty của họ. Cách đây 4 năm, công ty Sáng tạo đã bắt đầu việc tự đào tạo nhân viên của mình bằng cách cử 20 nhân viên sang Nhật. Tuy nhiên, mặc dù doanh nghiệp đã phải chi một khoản tương đối tốn kém, mà kết quả lại không được như ý muốn, vì các nhân viên này đã phải dành phần lớn thời gian cho công việc chuyên môn, không có thời gian dành cho học tiếng Nhật.

Như vậy vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp làm ăn với Nhật hiện nay là: liệu họ nên đợi các trường đại học dạy tiếng Nhật cho sinh viên CNTT trong trường kỹ thuật? hay đợi các Trung tâm đào tạo tiếng Nhật làm giúp nhiệm vụ này khi các Trường đại học không thể đáp ứng được nhu cầu? Hay nên chăng thành lập riêng một trung tâm nào đó chuyên đào tạo tiếng Nhật cho các nhân viên ngành IT?

Ở nước ta hiện nay mới có Trường Đại học FPT và Dự án HEDSPI của Đại học Bách Khoa Hà Nội là dạy song ngữ Việt – Nhật trong chương trình giảng dạy cho sinh viên CNTT. Tuy nhiên số lượng sinh viên được đào tạo trong dự án HEDSPI chỉ mới dừng lại ở con số tuyển sinh 120 sinh viên/năm, còn tại Đại học FPT số sinh viên học lớp tiếng Nhật cũng chỉ nhỉnh hơn một chút. Hơn nữa, số giáo viên có khả năng dạy CNTT bằng tiếng Nhật cũng rất “quý hiếm”, điều này phải trông chờ vào sự hợp tác của các doanh nghiệp để đưa các kỹ sư đã và đang làm việc trong công ty của Nhật sang dạy ngôn ngữ cho sinh viên.

Cần một chuẩn kỹ năng CNTT

Theo số liệu từ VINASA, hiện nay mỗi năm các trường đại học ở nước ta có khoảng 10.000 kỹ sư CNTT, nếu tính cả các trường cao đẳng và trường dạy nghề thì con số là 20.000 người. Tuy nhiên, trên thực tế số người tham gia vào lĩnh vực phần mềm chỉ tăng thêm 6.000 từ năm 2005 đến năm 2006. Điều này có nghĩa là thị trường nhân lực CNTT nước ta đang trên đà tăng nhanh về số lượng, đến mức việc đào tạo nhân lực có thể thay bằng cụm từ “sản xuất” nhân lực, trong khi đó thì vấn đề chất lượng lại đang là vấn đề làm đau đầu các nhà chiến lược.

Mặt khác, chương trình đào tạo cho nhân viên của mỗi công ty lại khác nhau, gây tốn kém không ít cho các doanh nghiệp. Các sinh viên của chúng ta khi ra trường có kỹ năng lập trình rất tốt, nhưng họ lại không có một số chuẩn kỹ năng cần thiết khi làm việc trong các công ty nước ngoài nói chung, và đặc biệt là Nhật Bản. Một trong những cách làm của các doanh nghiệp hiện nay là động viên để các nhân viên mới tự học các kỹ năng này với thời gian ít nhất là từ 6 tháng đến 1 năm.

Các cơ sở đào tạo hiện nay thì đang có xu hướng đưa các chuẩn quốc tế về CNTT vào chương trình đào tạo. Tại Đại học FPT, nội dung giáo dục chuyên nghiệp của Chương trình đào tạo cử nhân CNTT được định hướng cơ bản dựa theo các chuẩn quốc tế cao nhất về quy trình chất lượng như ABET (chuẩn cao cấp nhất về quy trình chất lượng đào tạo các ngành kỹ nghệ và công nghệ của Mỹ) và về khung chương trình đào tạo CNTT như ACM (ACM là Hiệp hội lâu đời nhất và lớn nhất về đào tạo CNTT trên thế giới). Các sinh viên trong dự án HEDSPI nằm trong Đại học Bách khoa Hà Nội cũng đang được đào tạo theo chuẩn CNTT của Nhật (ITSS).

Như vậy một yêu cầu bức thiết đặt ra hiện nay là cần có sự kết hợp giữa các cơ sở đào tạo, Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam (VINASA) và các doanh nghiệp để đưa ra một chuẩn kỹ năng cơ bản, bắt buộc các sinh viên phải học nếu muốn làm việc ở bất cứ một công ty nào. Đứng trước yêu cầu đó, Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam (VINASA) đã đưa ra kế hoạch xây dựng hệ thống chuẩn đánh giá nhân lực CNTT phù hợp với các hệ chuẩn nhân lực quốc tế và Nhật Bản. Hệ thống chuẩn mới này dự kiến sẽ hoàn thành và ban hành trong năm 2008.

(theo Tin học Tài chánh)