quoc_anh
11-05-2003, 12:41
DSL - CÔNG NGHỆ TRUY XUẤT TỐC ÐỘ CAO
Ðối với người sử dụng Internet việc khám phá, thưởng thức Internet bằng modem qua mạng điện thoại chỉ dừng lại ở tốc độ truyền tải rất thấp, tối đa 56 kbps và tương lai phải chịu cảnh nghẽn mạch thường xuyên khi số thuê bao Internet tăng vọt. Tốc độ truy xuất của thuê bao đã trở nên quá chậm chạp so với nhu cầu của khách hàng từ dữ liệu thông thường đã chuyển sang hình ảnh chất lượng cao và video.
Claude Shannon, cha đẻ của ngành lý thuyết thông tin (Information theory), vào năm 1948 đã đưa ra giới hạn dung lượng cho kênh truyền có nhiễu, cụ thể cho kênh điện thoại là 35 kbps và thực tế đã đạt được 33,6 kbps. Hạn chế chủ yếu của kênh truyền điện thoại đối với tốc độ thông tin số liệu không phải ở đường dây điện thoại cáp đồng như người ta thường nghĩ mà là ở dải tần truyền dẫn bị lọc chỉ cho qua các tín hiệu từ 300 Hz đến 4000 Hz khi đi qua mạch mã hoá PCM (Pulse Code Modulation: Ðiều chế mã hoá số xung biên độ) để tránh chồng lấn phổ tần tại tổng đài. Modem X2 của hãng U.S. Robotics, modem của hãng Rockwell và sau này được thống nhất bởi tiêu chuẩn V.90 của ITU-T (International Telecommunication Union - Telecommunication standard: Tiêu chuẩn viễn thông của Liên minh Viễn thông Quốc tế) là một giải pháp khôn ngoan lách khỏi mạch lọc này trong chiều từ ISP (Internet Service Provider: nhà cung cấp dịch vụ Internet) về đến người sử dụng (downstream) đạt được 56 kbps bằng đường truyền dẫn số trực tiếp từ ISP đến tổng đài nội hạt (đường T1: 1544 kbps hay E1: 2048 kbps) nhưng tốc độ chiều từ người sử dụng lên ISP (upstream) vẫn là 33,6 kbps có thể đã là tốc độ cao nhất có thể được của modem.
Mạng viễn thông hiện nay đã được hiện đại hoá với sự ứng dụng của kỹ thuật số trên toàn mạng từ công nghệ truyền dẫn quang tốc độ cao đến kỹ thuật chuyển mạch số và gần đây là đường dây thuê bao số ISDN (Intergrated Services Digital Network: Mạng số đa dịch vụ). Tuy nhiên, bản thân mạng viễn thông đã được thiết kế, đầu tư, vận hành và bảo dưỡng chủ yếu dành cho dịch vụ thoại và do đó đã bộc lộ nhược điểm lớn là từ chỗ chỉ xử lý các cuộc gọi điện thoại vốn chỉ kéo dài khoảng vài phút đã nhanh chóng quá tải khi phải đối mặt với các cuộc gọi Internet kéo dài đến vài tiếng đồng hồ khi mà người sử dụng đã từ chỗ chuyển file đơn thuần chuyển sang khám phá, thưởng thức Internet.
Giải pháp của DSL là truyền tải dữ liệu và thoại trên cùng đường dây điện thoại cáp đồng đến tổng đài nội hạt sẽ được tách ra bằng bộ tách dịch vụ. Tín hiệu thoại được chuyển qua tổng đài chuyển mạch, còn số liệu được đưa đến các ISP sẽ tránh được các mạch lọc PCM, tận dụng được dải thông tần số của cáp đồng trên 200 kHz và tránh làm quá tải các hệ thống chuyển mạch điện thoại. Ứng dụng thành tựu của kỹ thuật xử lý số tín hiệu và công nghệ vi điện tử ngày nay vào kỹ thuật điều chế đã đem lại tốc độ truyền tải dữ liệu cao trên cáp đồng.
Các phiên bản đối xứng (tốc độ downstream bằng tốc độ upstream) đầu tiên của DSL như HDSL (High speed DSL: Ðường dây thuê bao số tốc độ cao): 1544 kbps trên 2 đôi dây, 2048 kbps trên 3 đôi dây dài đến 3,6 km và sau này là SDSL (Single-line DSL: Ðường dây thuê bao số một đôi dây) với cùng tốc độ, cự ly tối đa 3 km đã là rất ấn tượng. Tuy nhiên phải đến khi sự bất đối xứng trong nhu cầu dữ liệu của người sử dụng thông thường là chiều downstream luôn lớn hơn nhiều so với chiều upstream được khai thác tối đa bằng các phiên bản DSL bất đối xứng và khi giảm độ dài vòng thuê bao thì tốc độ truyền tải số liệu mới thực sự đạt được sự thoả mãn những người sử dụng Internet khó tính nhất. Ðó là ADSL (Asymmetric DSL: Ðường dây thuê bao số bất đối xứng) với tốc độ downstream lên đến 8 Mkbps (cự ly 2 km) và 6 Mkbps (cự ly 3,6 km) hay VDSL (Very high bit rate DSL: Ðường dây thuê bao số tốc độ rất cao) đạt tốc độ downstream 13 Mkbps ở cự ly 1500 m, 26 Mkbps ở cự ly 1000 m và đặc biệt 52 Mkbps ở cự ly 300 m, đã đem lại truyền thông đa phương tiện đến từng gia đình. Giá cả của thuê bao và thiết bị DSL đang ngày càng hấp dẫn và người sử dụng ít tiền có thể quan tâm tới tiêu chuẩn G.lite của ITU-T thay việc đầu tư các bộ tách dịch vụ vốn đắt tiền, lắp đặt phức tạp bởi các mạch lọc microfilter có giá thành rất rẻ, dễ lắp đặt. Một phiên bản đặc biệt của DSL là RADSL (Rate Adaptive DSL: Ðường dây thuê bao số thích ứng tốc độ) rất thích hợp cho các đường dây cáp đồng có chất lượng kém ở vùng ngoại ô và cự ly thông tin dài với tốc độ truyền tải chấp nhận được. Bên cạnh đó, công nghệ VoDSL (Voice over DSL: thoại qua đường dây thuê bao số) truyền tải 24 kênh thoại qua 1 đường dây điện thoại đang rất được các tổng đài nội bộ quan tâm.
Hiện nay ADSL đang là mối quan tâm hàng đầu của ngành bưu điện Việt Nam và đã có những bước tiến đáng kể trong việc thử nghiệm hệ thống ADSL đầu tiên trong việc hỗ trợ thuê bao dân dụng và doanh nghiệp truy xuất Internet.
Quốc Anh
Ðối với người sử dụng Internet việc khám phá, thưởng thức Internet bằng modem qua mạng điện thoại chỉ dừng lại ở tốc độ truyền tải rất thấp, tối đa 56 kbps và tương lai phải chịu cảnh nghẽn mạch thường xuyên khi số thuê bao Internet tăng vọt. Tốc độ truy xuất của thuê bao đã trở nên quá chậm chạp so với nhu cầu của khách hàng từ dữ liệu thông thường đã chuyển sang hình ảnh chất lượng cao và video.
Claude Shannon, cha đẻ của ngành lý thuyết thông tin (Information theory), vào năm 1948 đã đưa ra giới hạn dung lượng cho kênh truyền có nhiễu, cụ thể cho kênh điện thoại là 35 kbps và thực tế đã đạt được 33,6 kbps. Hạn chế chủ yếu của kênh truyền điện thoại đối với tốc độ thông tin số liệu không phải ở đường dây điện thoại cáp đồng như người ta thường nghĩ mà là ở dải tần truyền dẫn bị lọc chỉ cho qua các tín hiệu từ 300 Hz đến 4000 Hz khi đi qua mạch mã hoá PCM (Pulse Code Modulation: Ðiều chế mã hoá số xung biên độ) để tránh chồng lấn phổ tần tại tổng đài. Modem X2 của hãng U.S. Robotics, modem của hãng Rockwell và sau này được thống nhất bởi tiêu chuẩn V.90 của ITU-T (International Telecommunication Union - Telecommunication standard: Tiêu chuẩn viễn thông của Liên minh Viễn thông Quốc tế) là một giải pháp khôn ngoan lách khỏi mạch lọc này trong chiều từ ISP (Internet Service Provider: nhà cung cấp dịch vụ Internet) về đến người sử dụng (downstream) đạt được 56 kbps bằng đường truyền dẫn số trực tiếp từ ISP đến tổng đài nội hạt (đường T1: 1544 kbps hay E1: 2048 kbps) nhưng tốc độ chiều từ người sử dụng lên ISP (upstream) vẫn là 33,6 kbps có thể đã là tốc độ cao nhất có thể được của modem.
Mạng viễn thông hiện nay đã được hiện đại hoá với sự ứng dụng của kỹ thuật số trên toàn mạng từ công nghệ truyền dẫn quang tốc độ cao đến kỹ thuật chuyển mạch số và gần đây là đường dây thuê bao số ISDN (Intergrated Services Digital Network: Mạng số đa dịch vụ). Tuy nhiên, bản thân mạng viễn thông đã được thiết kế, đầu tư, vận hành và bảo dưỡng chủ yếu dành cho dịch vụ thoại và do đó đã bộc lộ nhược điểm lớn là từ chỗ chỉ xử lý các cuộc gọi điện thoại vốn chỉ kéo dài khoảng vài phút đã nhanh chóng quá tải khi phải đối mặt với các cuộc gọi Internet kéo dài đến vài tiếng đồng hồ khi mà người sử dụng đã từ chỗ chuyển file đơn thuần chuyển sang khám phá, thưởng thức Internet.
Giải pháp của DSL là truyền tải dữ liệu và thoại trên cùng đường dây điện thoại cáp đồng đến tổng đài nội hạt sẽ được tách ra bằng bộ tách dịch vụ. Tín hiệu thoại được chuyển qua tổng đài chuyển mạch, còn số liệu được đưa đến các ISP sẽ tránh được các mạch lọc PCM, tận dụng được dải thông tần số của cáp đồng trên 200 kHz và tránh làm quá tải các hệ thống chuyển mạch điện thoại. Ứng dụng thành tựu của kỹ thuật xử lý số tín hiệu và công nghệ vi điện tử ngày nay vào kỹ thuật điều chế đã đem lại tốc độ truyền tải dữ liệu cao trên cáp đồng.
Các phiên bản đối xứng (tốc độ downstream bằng tốc độ upstream) đầu tiên của DSL như HDSL (High speed DSL: Ðường dây thuê bao số tốc độ cao): 1544 kbps trên 2 đôi dây, 2048 kbps trên 3 đôi dây dài đến 3,6 km và sau này là SDSL (Single-line DSL: Ðường dây thuê bao số một đôi dây) với cùng tốc độ, cự ly tối đa 3 km đã là rất ấn tượng. Tuy nhiên phải đến khi sự bất đối xứng trong nhu cầu dữ liệu của người sử dụng thông thường là chiều downstream luôn lớn hơn nhiều so với chiều upstream được khai thác tối đa bằng các phiên bản DSL bất đối xứng và khi giảm độ dài vòng thuê bao thì tốc độ truyền tải số liệu mới thực sự đạt được sự thoả mãn những người sử dụng Internet khó tính nhất. Ðó là ADSL (Asymmetric DSL: Ðường dây thuê bao số bất đối xứng) với tốc độ downstream lên đến 8 Mkbps (cự ly 2 km) và 6 Mkbps (cự ly 3,6 km) hay VDSL (Very high bit rate DSL: Ðường dây thuê bao số tốc độ rất cao) đạt tốc độ downstream 13 Mkbps ở cự ly 1500 m, 26 Mkbps ở cự ly 1000 m và đặc biệt 52 Mkbps ở cự ly 300 m, đã đem lại truyền thông đa phương tiện đến từng gia đình. Giá cả của thuê bao và thiết bị DSL đang ngày càng hấp dẫn và người sử dụng ít tiền có thể quan tâm tới tiêu chuẩn G.lite của ITU-T thay việc đầu tư các bộ tách dịch vụ vốn đắt tiền, lắp đặt phức tạp bởi các mạch lọc microfilter có giá thành rất rẻ, dễ lắp đặt. Một phiên bản đặc biệt của DSL là RADSL (Rate Adaptive DSL: Ðường dây thuê bao số thích ứng tốc độ) rất thích hợp cho các đường dây cáp đồng có chất lượng kém ở vùng ngoại ô và cự ly thông tin dài với tốc độ truyền tải chấp nhận được. Bên cạnh đó, công nghệ VoDSL (Voice over DSL: thoại qua đường dây thuê bao số) truyền tải 24 kênh thoại qua 1 đường dây điện thoại đang rất được các tổng đài nội bộ quan tâm.
Hiện nay ADSL đang là mối quan tâm hàng đầu của ngành bưu điện Việt Nam và đã có những bước tiến đáng kể trong việc thử nghiệm hệ thống ADSL đầu tiên trong việc hỗ trợ thuê bao dân dụng và doanh nghiệp truy xuất Internet.
Quốc Anh