http://tintuconline.com.vn/vn/vanhoa/243872/
Tết xưa, Tết nay và tương lai ?
( Sẽ bỏ Tết cổ truyền VN )
GS-TS dân tộc học Ngô Văn Lệ: Cuộc sống công nghiệp “dắt” chúng ta đi
Muốn bỏ Tết cổ truyền cho phù hợp với cuộc sống hiện đại đang tuôn trào thì phải là sự đồng thuận của toàn xã hội, chứ không thể bằng biện pháp hành chính. Nhưng tôi tin khi VN chúng ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì không muốn bỏ cũng phải bỏ, bởi lúc đó cuộc sống công nghiệp “dắt” chúng ta đi, chứ không phải ta “dắt” cuộc sống đi. Ngày xưa “nông vụ tấn thời” nên “ngày làm tháng ăn”, còn xã hội công nghiệp có khi “một giờ làm, chục năm ăn”, vì thế không ai chịu bỏ lỡ thời cơ cả đâu. Do đó, tôi nghĩ chúng ta đừng bận tâm lắm về chuyện bỏ hay giữ Tết cổ truyền. Cái gì đến ắt phải đến, có cưỡng cũng không được, có cầu cũng chẳng xong.
Tết xưa, Tết nay và tương lai?
Cái gì có lợi cho dân tộc, cho đất nước thì theo; cái gì không lợi cho dân tộc, cho đất nước, cho sự tiến bộ của loài người thì nên điều chỉnh cho phù hợp.
Ngày xưa, nói đến Tết là nói đến “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”. Nhưng cuộc sống mỗi ngày mỗi khác, cái gì phù hợp với cuộc sống thì tồn tại; cái gì cản trở cuộc sống thì bị loại trừ. Đó là quy luật tất yếu của cuộc sống.
Hồn ở đâu bây giờ?
Trước Cách mạng Tháng Tám, Vũ Đình Liên từng than: “Giấy đỏ buồn không thắm/Mực đọng trong nghiên sầu” và người chuyên viết câu đối năm nào đành phải kiếm kế khác sinh nhai để cho nhà thơ thổn thức: “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ?”. Câu hỏi dường như không có lời giải. Những năm gần đây, nhiều “ông đồ trẻ” muốn hồi phục câu đối đỏ ngày Tết, nhưng rồi phần lớn “Ông đồ vẫn ngồi đấy/Qua đường không ai hay”. Tại sao? Có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chính là cuộc sống hôm nay có quá nhiều nơi vui chơi, nhiều chương trình văn nghệ qua các phương tiện nghe nhìn, nhiều tờ báo Tết với nội dung phong phú, trình bày đẹp mắt, giá cả cũng không phải là đắt so với mặt bằng thu nhập nên người ta dễ thưởng thức hơn là thưởng thức câu đối Tết. Bên cạnh đó, những “ông đồ trẻ” có mấy ai đủ khả năng cho câu đối Tết phù hợp với tâm trạng, với gia cảnh của người cần và cũng còn mấy ai thích thú với lối chơi chữ ấy, thích thú với nét thanh nét đậm cùng những phiên đới/ tập đới của loại chữ vuông?
Cây nêu ngày tết
Cây nêu cũng chỉ còn trong trí tưởng. Bây giờ ai có muốn phục hồi cũng chẳng biết phục hồi ra sao. Đọc trong sách vở thì mỗi người nói một phách, nên theo ai, không nên theo ai. Nhưng để làm gì? Thế kỷ XXI, chúng ta đang hướng đến một xã hội công nghiệp, làm gì có chuyện “Tháng giêng là tháng ăn chơi”, làm gì có chuyện “tín hiệu báo cho ma quỷ biết đây là đất có chủ”, làm gì có chuyện “trang bị vũ khí (cung tên) và trò chơi tao nhã (bàn cờ) cho vị thần giữ cổng vui chơi, canh cửa trong ba ngày Tết”... Ngày xưa, gió mưa, hạn hán, bão lụt... “dở chứng” là do trời và con người chỉ biết lập đàn cúng bái; ngày nay, con người biết “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa” thì làm gì còn chuyện cầu đảo, còn chuyện dựng nêu, hạ nêu. Và cây nêu ngày Tết đã theo tháng ngày đi vào quên lãng.
Trong không khí Tết năm 1941, Đoàn Văn Cừ viết: “Bàn thờ hương cháy tỏa mùi/ Từng tràng pháo chuột nổ dài trong khuya”. Sau này, dân ta không chỉ biết pháo chuột mà còn cả pháo tống, pháo đùng. Nhiều trẻ em đi nhặt pháo, chơi pháo trong những ngày Tết bị thương ở mắt, ở tay không năm nào không có. Nhiều người bị bệnh về đường hô hấp càng khốn khổ với mùi thuốc pháo, nhất là trong đêm giao thừa. Và năm nào cũng xảy ra vài vụ cháy nổ do sản xuất, vận chuyển pháo, làm chết biết bao con người. Tháng 8-1994, Thủ tướng Chính phủ có chỉ thị cấm đốt pháo, cấm sản xuất, tàng trữ, mua bán các loại pháo nổ và thuốc pháo nổ đã được sự đồng thuận của nhân dân. Hơn mười năm qua, trên suốt chiều dài đất nước, tràng pháo Tết trở thành xa lạ với mọi người.
Phải thuận theo tự nhiên
Như vậy, không khí Tết bây giờ so với ngày xưa chỉ còn thịt mỡ, dưa hành và bánh chưng xanh. Nhưng đời sống nhân dân ngày một khá hơn, cuộc sống tất bật hơn nên không mấy ai còn chung nhau một con heo hoặc ngồi canh nồi bánh chưng, bánh tét trong đêm trừ tịch, kể cả làm dưa hành, củ kiệu. Mọi thứ đã có ở chợ, ở các siêu thị vừa hợp theo tiêu chuẩn vệ sinh do Nhà nước ban hành vừa... ngon hơn mình làm và cũng... rẻ hơn, nhất là đỡ bỏ công vào những việc ấy không ít.
Hình ảnh con trâu trong dịp Tết Kỷ Sửu 2009
Sự bận rộn trước và trong Tết từ xưa đến nay không khác mấy. Trước Tết, nhà nhà đều lo lau dọn nhà cửa, bàn thờ và đi lễ cúng ông bà. Những ngày Tết thì có nơi quy định: Mùng một Tết cha, mùng hai Tết mẹ, mùng ba Tết thầy. Có nơi, mọi việc lễ nghi đều dồn vào hai ngày đầu năm mới, còn ngày mùng ba Tết dành cho giới ăn mày. Chuyện lễ nghi nhớ đến ông bà, cha mẹ, anh em kẻ khuất người còn trong những ngày đầu năm là nét đẹp văn hóa của dân tộc. Chim có tổ, người có tông. Không yêu gia đình, anh em, cha mẹ, ông bà thì làm sao dám mở miệng nói yêu Tổ quốc, yêu đồng bào? Nhưng nếu ngày nào đó, dân tộc ta cũng giống như một số dân tộc khác ở châu Á bỏ hẳn ngày Tết cổ truyền, hưởng chung cái Tết Dương lịch của phương Tây, chuyện lễ nghi ấy có còn không? Tôi nghĩ không thể nào mất được. Nét đẹp văn hóa ấy mất, còn hay phát triển lên mức cao hơn là do con người đang và sẽ sống ở cõi đời này, chứ không phải vì việc chuyển từ Tết Nguyên đán sang Tết Dương lịch. Trong thực tế, ông cha ta đã hoán chuyển nhiều tập tục lễ nghi như thế.
Chẳng hạn, sau ngày 23 tháng chạp đưa ông Táo về trời, các làng đều tế nghĩa trủng (cúng những người chết đường chết chợ, chết không được người thân chôn cất...), nhưng vì cuộc sống, nhiều nơi gộp chung với lễ tế Xuân; hoặc tháng chạp là tháng con cháu nội ngoại tập trung chạp mả ông bà, nhưng những vùng thấp, tháng chạp còn bùn lầy, con cháu đi lại khó khăn, đất còn quá ướt thì nhiều tộc họ chuyển sang chạp mả vào tháng cuối Xuân thời tiết nắng ráo... Ngay cả ngày Phật đản sanh trước đây là ngày mùng tám tháng tư, nay chuyển sang ngày rằm tháng tư cũng chẳng ảnh hưởng gì.
Nói chung, mỗi thời mỗi khác và con người phải thuận theo tự nhiên thì xã hội mới tiến bộ. Bây giờ, Việt Nam chúng ta mở cửa làm bạn với các nước và là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cái gì có lợi cho dân tộc, cho đất nước thì theo, cái gì không lợi cho dân tộc, cho đất nước, cho sự tiến bộ của loài người thì nên điều chỉnh cho phù hợp.
Nhà nghiên cứu văn hóa Huỳnh Ngọc Trảng: Lễ hội vẫn còn chẳng mất đi đâu
Dân tộc ta cũng như một số dân tộc khác ăn Tết dựa theo chu kỳ nông nghiệp. Chữ Tết do chữ Tiết mà ra. Chúng ta thường nói “tứ thời bát tiết”, song thực ra từ lâu lắm rồi người ta đã tính đến 24 tiết chứ không phải 8 tiết, song đó là một thói quen... khó bỏ. “Tháng giêng là tháng ăn chơi”, nên hội Xuân từ đó mà ra. Chuyện bỏ hay giữ Tết cổ truyền, tôi tin một ngày không xa cũng phải bỏ thôi, bởi đã là “thế giới phẳng”, đã cùng bước vào sân chơi toàn cầu thì không có gì vô lý hơn khi người ta làm, mình lại nghỉ, cản trở không ít sự vận hành của cuộc sống. Các lễ hội lúc đó tức khắc có sự điều chỉnh cho hợp với cuộc sống chứ chẳng mất đi đâu.
GS-TS dân tộc học Ngô Văn Lệ: Cuộc sống công nghiệp “dắt” chúng ta đi
Muốn bỏ Tết cổ truyền cho phù hợp với cuộc sống hiện đại đang tuôn trào thì phải là sự đồng thuận của toàn xã hội, chứ không thể bằng biện pháp hành chính. Nhưng tôi tin khi VN chúng ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì không muốn bỏ cũng phải bỏ, bởi lúc đó cuộc sống công nghiệp “dắt” chúng ta đi, chứ không phải ta “dắt” cuộc sống đi. Ngày xưa “nông vụ tấn thời” nên “ngày làm tháng ăn”, còn xã hội công nghiệp có khi “một giờ làm, chục năm ăn”, vì thế không ai chịu bỏ lỡ thời cơ cả đâu. Do đó, tôi nghĩ chúng ta đừng bận tâm lắm về chuyện bỏ hay giữ Tết cổ truyền. Cái gì đến ắt phải đến, có cưỡng cũng không được, có cầu cũng chẳng xong.
Theo Vu Gia
nguoilaodong
Bookmarks