(Bạn hãy giúp Người Yêu Nước gửi bài viết này cho càng nhiều người càng tốt)
Có thể xem và download bài viết tại đây:
http://nguoiyeunuoc2008.googlepages....enGiaoDuc.html
Gửi bài viết này (đã có mã BBCode) lên diễn đàn dạng VBB/IPB, download file này: http://nguoiyeunuoc2008.googlepages....uc_VBB_IPB.rtf
Gửi bài viết này lên diễn đàn dạng PHPBB, download file này: http://nguoiyeunuoc2008.googlepages....Duc_PHPBBB.rtf
Mã HTML để gửi bài viết này lên các Website/Blog (sau khi mở cửa sổ soạn thảo của Blog bạn hãy tìm và click vào nút View HTML Source hoặc code rồi copy - paste vào, Blog Yahoo chỉ cho tối đa 65536 ký tự/ bài nên hãy gửi thành nhiều bài): http://nguoiyeunuoc2008.googlepages....bsite_blog.rtf
Thay đổi tư duy giáo dục Việt Nam + 100 Sáng Kiến GD
Viết tắt: TD = Tư duy(thinking) , TD ĐL = tư duy độc lập (Independent Thinking), GD = Giáo dục, VN = Việt Nam, HS = học sinh, SV = sinh viên, GTĐ = Gốc tọa độ, ST = sáng tạo (creation), HV= học viên, QT = quốc tế, TG = thế giới, HTĐ = hệ tọa độ, CT = chủ thể, KT = khách thể , CL = công lập , NCL = ngoài công lập, XH = xã hội, XHH = xã hội hóa, HQC = hệ quy chiếu, GV = giáo viên, ĐH= đại học, THPT = trung học phổ thông, THCS = trung học cơ sở , PHHS = Phụ huynh học sinh , TTN = thanh thiếu niên, PH = Phụ huynh, TL = tài liệu, TrQ = Trung Quốc, DN = Doanh nghiệp, SP = sản phẩm, NT = Nhà trường, ĐT = đào tạo, CNTT&TT = công nghệ thông tin & truyền thông, PNTE = phụ nữ, trẻ em
1)So sánh tư duy giáo dục Việt Nam và của nước ngoài:
Việt Nam(VN): Coi người thày, SGK là trọng tâm, là chủ yếu, là chủ thể của việc học, quá đề cao vai trò của thày và SGK, xem nhẹ vai trò của người học, coi người học là khách thể.
Nước Ngoài (NN): Lấy người học làm trọng tâm, là chủ yếu, là chủ thể của việc học, đề cao người học hơn là người thày và SGK, thày và SGK sẽ là khách thể.
VN: đầu vào trường ĐH rất khó, ra trường rất dễ(đã vào là hầu hết sẽ ra trường, gần như không có tính đào thải).
NN: đầu vào trường ĐH rất dễ, nhưng để ra trường thì rất khó(tính đào thải rất cao).
VN: HS giỏi vào trường công lập(CL), HS yếu vào trường ngoài công lập (NCL).
NN: HS giỏi vào trường NCL, HS yếu vào trường CL.
VN: Mục lục để cuối sách.
NN: Mục lục để đầu sách.
Một trong những nguyên nhân của tư duy này xuất phát từ lịch sử và văn hóa, cũng như ngôn ngữ.
Ngôn ngữ:
Người Việt nói: Đàn chim bay trên bầu trời. (Lấy mình làm chủ thể, làm gốc tọa độ để nói về đối tượng khác, đàn chim là khách thể)
Nước ngoài: The birds are flying in the sky. (đàn chim bay trong bầu trời, Lấy đàn chim là trọng tâm, là chủ thể,là gốc tọa độ, đặt mình vào vị trí khách thể,người quan sát đối tượng)
VD tương tự:
VN: Lũ trẻ chơi ngoài vườn.
NN: The children are playing in the garden. (Lũ trẻ chơi trong vườn)
Người Việt luôn thể hiện ý kiến chủ quan về đối tượng, luôn lấy mình là gốc tọa độ, là chủ thể , còn đối tượng đc nói đến lại là khách thể >>> Ý kiến đưa ra thường mang yếu tố chủ quan, phiến diện. Trong khi đó người NN coi mình là khách thể, đóng vai trò quan sát khi nói về đối tượng, lấy đối tượng được nói đến làm trọng tâm, làm chủ thể, làm gốc tọa độ >> Ý kiến đưa ra thường khách quan và chính xác hơn.
Văn hóa:
Trong ca dao tục ngữ VN có những câu: Không thày đố mày làm nên, Muốn con hay chữ thì yêu lấy thày,… (Luôn thể hiện tính thụ động, phụ thuộc, dựa dẫm, ỷ lại)
"có mới nới cũ" << Ý của câu này là phê phán, chê bai những con người gặp những điều mới mẻ mà xa rời những cái đã quen thuộc với mình, tức là những cái cũ, kể cả những hủ tục lạc hậu luôn được khuyến khích duy trì. Trong thời đại hội nhập chúng ta không nên sử dụng câu này nữa, vì như thế là bảo thủ, hẹp hòi. Chúng ta phải luôn luôn vận động, luôn luôn thay đổi, luôn luôn chấp nhận những cái mới, cho dù nó phủ định cái cũ, nhưng nó là cái tiến bộ hơn cái cũ, chúng ta phải luôn luôn xóa bỏ những tư duy cũ kỹ, những lối mòn trong ngành GD.
"Đất có lề, quê có thói" , nhưng bước ra sân chơi quốc tế mà ta cứ dùng cái lề, thói ấy thì thua là cái chắc.
Thành ngữ NN: No pain, No Gain ( Nếu không chịu đau thì sẽ không đạt được điều gì).
You Will Win If You Want (Bạn sẽ thắng nếu bạn muốn). >>> Đề cao tính độc lập, chủ động, sự cố gắng của bản thân, không ỷ lại dựa dẫm).
Những câu ca dao tục ngữ trong thời đại này có lẽ đã lỗi thời và lạc hậu khi áp dụng, và chỉ nên sử dụng với ý nghĩa lịch sử, văn hóa chứ không nên áp dụng vào thực tiễn.
Di sản của văn hóa phong kiến vẫn còn di căn đến ngày nay, văn hóa này cũng đề cao vai trò của tập thể, xem nhẹ vai trò của cá nhân, xem nhẹ những người trẻ tuổi. Nếu có thành công là thành công của tập thể (khi đó thì ai cũng có công), thất bại là thật bại của tập thể (khi đó thì chẳng ai có lỗi cả, vì là lỗi của tập thể mà), vai trò của cá nhân bị lu mờ. Khi có lỗi thì người nọ đổ lỗi, đẩy trách nhiệm cho người kia, chẳng ai nhận lỗi, khi có công thì ai cũng nhận về phía mình. Còn nước ngoài thì sao, mỗi một tấm bê tông khi đổ người công nhân phải đóng dấu tên mình vào đó, khi công trình bị nứt hỏng, cứ lật bê tông lên, thấy tên ai thì xử người đó > vai trò, trách nhiệm của cá nhân rất rõ ràng và luôn được đề cao. Trong thời đại này chúng ta nên phát triển văn hóa theo hướng bỏ đi những yếu tố lỗi thời, lạc hậu, tiếp cận với những văn minh hiện đại của quốc tế.
Văn hóa tiểu nông,ăn xổi ở thì, làm ăn chộp giật, chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt, không nghĩ đến lâu dài.Tiểu nông khi sống bừa bãi, vô trật tự, vô tổ chức. Điển hình như khi mua tem vé tháng xe bus, lên xe, ăn uống , vào sân vận động không bao giờ người VN có khái niệm xếp hàng, tất cả đều nháo nhào, chen lấn, xô đẩy, kéo áo nhau > 1 VD về văn hóa tiểu nông, như vậy thì sẽ nhanh cho 1 số người, nhưng sẽ chậm hơn cho tất cả( VD có 100 người mua tem vé tháng xe bus, nếu xếp hàng lần lượt từng người 1 thì chỉ mất 100 phút là ai cũng mua được, nhưng nếu nháo nhào,chen lấn,xô đẩy sẽ mất 200 phút để ai cũng mua được, như vậy vì không xếp hàng trung bình mỗi người đã mất đi 1 phút vô ích, giả sử trung bình 1 ngày mỗi người VN có 1 lần không xếp hàng thì trong 1 ngày 83 triệu người sẽ mất 83 triệu phút vô ích ( ~ 158 năm),và 1 năm sẽ mất ~57.639 năm vô ích!!!). Người VN còn có thói quen "giờ cao su", tác phong làm việc chưa tốt, đi làm thì muộn 5 > 15 phút, lúc nghĩ làm thì lại sớm hơn 5 > 15 phút, trong giờ làm thì có khi còn lơ là, làm việc khác, còn người nước ngoài thì đi làm không muộn 1 giây (có máy chấm công, nếu muộn 1 giây cũng coi như đi muộn), tác phong làm việc công nghiệp, tập trung tối đa vào công việc, còn 1 phút nữa là hết giờ họ vẫn làm cho hết phút cuối ấy. Có 1 câu chuyện ngụ ngôn khá hay thế này: Năm ấy hạn hạn mất mùa, dân chúng đói khát bèn bắc thang lên trời xin ăn (lúc đó chỉ có người Nga, người Trung Quốc và người VN). Người Nga và người Trung Quốc đến trước gõ cổng trời nhưng Ngọc Hoàng đều bảo Thiên Lôi không được mở cửa. Nhưng khi người VN đến gõ cổng thì Ngọc Hoàng lại sai Thiên Lôi mở cổng ra, Thiên Lôi ngạc nhiên hỏi: "Dạ bẩm Ngọc Hoàng, tại sao lại mở cổng cho người VN ?", Ngọc Hoàng nói: "Có mở ra thì chúng nó cũng không vào được...", Thiên Lôi kinh hãi: "Dạ bẩm Ngọc Hoàng, tại sao lại như thế ạ?", Ngọc Hoàng cười nói: " Vì chúng nó kéo áo nhau!!!"
Tâm lý trò phải thua thày, trẻ phải thua già coi thường người trẻ còn phổ biến trong xã hội (rất là hãm tài). Cái tâm lý đó cũng là 1 điều cản trở TD ĐL và ST của những người trẻ, làm họ thiếu tự tin khi thuyết trình trước những "cây đa, cây đề". Cứ bảo làm sao mà thanh thiếu niên (TTN) VN lại nhút nhát, rụt rè, thụ động hơn TTN các nước khác, tại sao XH, rồi ngành GD cứ chê bai điều đó khi mà chính TD GD chưa đúng đắn, và cả tư duy của XH còn bảo thủ, cũ kỹ gây ra ? Không chỉ trong học tập, mà trong rất nhiều hoạt động khác TTN luôn bị coi là khách thể, là nhân vật phụ, là đối tượng để cho người lớn phục vụ, tại sao không để TTN là chủ thể, là nhân vật chính ? Mọi người lớn đều đã từng là TTN vậy cũng phải hiểu được 1 chút gì đó tâm lý, mong muốn của TTN chứ?
Khi TTN làm sai, hoặc sa ngã , người lớn luôn luôn trách móc, phê phán, kết tội TTN, vậy xin hỏi trách nhiệm của người lớn ở đâu khi không tạo ra những sân chơi lành mạnh cho TTN (cả thực lẫn ảo), khi không GD TTN đến nơi đến chốn, đúng cách, đúng mực, khi coi thường TTN, và khi chính người lớn cũng sai trái (tham nhũng, tiêu cực, tội ác, luật bất thành văn,...) ? Một con dao có 2 lưỡi, 1 vấn đề có 2 mặt, có nói đi thì cũng phải nói lại , sao người lớn chỉ nhìn thấy 1 lưỡi của con dao, chỉ nhìn thấy 1 mặt của vấn đề, chỉ có nói chiều đi ?
Truyền thống tôn sư trọng đạo, kính trên nhường dưới có lẽ cũng nên được thay đổi, nên được hiện đại hóa cho phù hợp thời đại . Bởi vì khái niệm thày và trò có thể hiểu rộng ra là khái niệm người cho kiến thức (Knowledge Provider - KP) và người nhận kiến thức (Knowledge Receiver - KR), như vậy đôi khi trò là KP, thày là KR, và quan hệ cho kiến thức - nhận kiến thức (KP to KR) sẽ vô cùng đa dạng, bởi vì có thể nhận kiến thức từ vô số nguồn từ thực tiễn, sách báo, truyền hình, Internet,...Còn khái niệm kính trên nhường dưới cũng trở thành 1 khái niệm tương đối, chứ không còn đồng nghĩa với ít tuổi - nhiều tuổi như xưa : VD như 1 người mới chỉ ngoài 20 đã bắt đầu chơi chứng khoán, còn người khác ngoài 50 mới bắt đầu chơi, và cái người ngoài 20 tuổi ấy lại là người chơi lâu năm hơn, nhiều kinh nghiệm hơn cái người ngoài 50, như vậy khái niệm trên và dưới nên được hiểu rộng ra là những người đi trước, có nhiều kinh nghiệm hơn trong 1 lĩnh vực nào đó là người trên, người đi sau, ít kinh nghiệm là người dưới.
Lịch sử:
Nền văn minh lúa nước, tính cộng đồng rất cao, đề cao vai trò của tập thể (bộ tộc, làng xóm, họ mạc, gia phong,...), vai trò của cá nhân bị lu mờ. Tính cộng đồng là yếu tố mang tính chất ỷ lại, dựa dẫm đã ăn sâu vào tiềm thức qua nhiều thế hệ >> không có chỗ cho TD ĐL và ST > không còn phù hợp trong thời đai ngày nay.
2)Thay đổi cách hiểu về cặp khái niệm Thày - Trò
Tại sao chúng ta cứ quan niệm máy móc rằng, người đứng trên bục giảng, đeo thẻ GV thì là thày, còn HSSV ngồi dưới là trò?
Quan niệm đó rất đúng ở thời xa xưa khi mà trình độ phát triển của XH rất thấp, nhưng hiện nay thì quan niệm đó là chưa đầy đủ, chưa toàn diện. Khi ta đọc cuốn sách của người khác thì ta thu nhận được kiến thức của người ấy, người ấy là thày của ta, mặc dù người ấy không đứng trên bục giảng, không đeo thẻ GV, không làm trong ngành GD. Hoặc khi ta đọc, nghe, xem trên báo, đài, truyền hình, internet nói về 1 người nào đó, rồi từ đó ta học theo cách nghĩ, cách nói, cách làm của người ấy thì người ấy cũng là thày của ta. Còn nếu những GV đứng trên bục giảng nói những toàn điều mà ta đã học rồi, biết rồi, chưa có gì mới, ta không tiếp thu kiến thức nào của GV ấy thì GV ấy không phải là thày của ta. Còn người GV cũng nên thay đổi cách nghĩ: không phải những em HSSV ngồi ở dưới mới/ phải là trò của mình, chỉ cần thấy có người tiếp thu kiến thức của mình, nói và làm như mình thì đó là trò của mình rồi. Còn những em HSSV ngồi ở dưới nghe mình nói mà không tiếp thu kiến thức của mình (có thể em HSSV ấy đã học rồi, biết rồi) thì em đó chưa phải là trò của mình. Và kể cả những người bạn quanh ta, rồi những người mà ta tiếp xúc họ cũng sẽ là thày của ta, nếu họ dạy ta 1 kiến thức nào đó, hoặc dạy ta 1 nghị lực, 1 cách sống, cách nói, cách nghĩ, cách làm hay. Như vậy khi có quá trình cho - nhận kiến thức thì có quan hệ thày trò, ở thời xưa thì quá trình cho - nhận kiến thức là 1 quá trình lâu dài, nhưng trong thời đại hiện nay, quá trình đó có thể diễn ra 1 cách rất nhanh, thậm chí là tức thời [Khi ta tìm kiếm 1 thông tin trên Internet, chỉ cần vài giây ta đã có thể nhận được kiến thức]. Và vì thế việc hoán đổi vị trị thày - trò cũng sẽ diễn ra nhanh chóng, tức thời: phút trước ta là thày(trò), nhưng phút sau ta đã là trò(thày). Như vậy kể cả sách báo, đài, truyền hình, internet cũng có thể là thày của ta. Khái niệm thày - trò cần được mở rộng ra là: Người/vật/sự kiện/hiện tượng cho kiến thức sẽ là thày, còn người/vật/sự kiện/hiện tượng tiếp thu kiến thức sẽ là trò. Một người vừa có thể trong lĩnh vực này là thày, nhưng lĩnh vực khác lại là trò, lúc này là thày, lúc khác là trò, và người trò cũng có lúc, có lĩnh vực là thày. Hơn nữa với hình thức đào tạo trực tuyến E- Learning, lớp học đã trở lên vô hình. không còn phải là 4 bức tường, không cần phải có bàn ghế, phấn , bảng ? Thày và trò không còn phải trực tiếp đứng cạnh nhau(nhưng vẫn có thể nhìn thấy nhau, nghe nhau nói).
Khái niệm "gõ đầu trẻ" để chỉ việc dạy học là rất đúng ở thời xưa, vì khi đó thày bao giờ cũng già hơn trò. Còn bây giờ có cả khái niệm "gõ đầu già" khi những người cao tuổi được những người trẻ dạy vi tính/ photoshop/ chứng khoán/tiếng Anh,...
Còn 1 điều quan trọng nữa: người thày lớn nhất chính là thực tiễn cuộc sống, thực tiễn sẽ dạy con người những điều không có trong sách vở, những điều chưa ai làm, chưa ai nói đến,và chưa ai nghĩ đến. Học hỏi từ thực tiễn hơn là học hỏi bất cứ người thày nào(lịch sử và triết học đều thừa nhận. Nhờ thực tiễn mà con người tìm ra lửa, biết nấu chín thức ăn, biết chế tác công cụ lao động, máy móc,...
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 là người thày của các nhà kinh tế học.
Vụ khủng bố 11/9/2001 tại Mỹ là người thày của cơ quan an ninh, chống khủng bố các nước.
Vụ sóng thần tại Thái Lan năm 2004là người thày của các trung tâm cảnh báo bão trên thế giới.
Con người đã chế tạo những robot lau cửa kính mô phỏng chuyển động của con nhện, chế tạo máy bay mô phỏng hình thái động lực học của con chim, chế tạo tàu thủy/tàu ngầm mô phỏng hình thái động lực học của con cá, chế tạo robot mô phỏng chuyển động con giun (khoan thăm dò dầu khí, địa chất), chế tạo robot mô phỏng chuyển động con ốc sên. Khi đó con nhện, con cá, con chim, con giun, con ốc sên là thày của con người.
Nhờ có quả táo rơi vào đầu mà Isaac Newton phát minh ra định luật vạn vật hấp dẫn, Alessandro Volta đã phát minh ra pin do khi ông chạm tay vào 1 xâu gồm các đồng tiền bằng bạc và kẽm ông thấy có dòng điện phát ra. Đó là rất rất nhiều những VD nói về việc con người đã học hỏi từ thực tiễn cuộc sống như thế nào.
Như vậy nếu như những người đứng trên bục giảng không gắn mình với thực tiễn, mà chỉ có những lý thuyết cũ kỹ, sáo rỗng thì sẽ không thể làm người học hứng thú với việc học. Thậm chí người thày có thể bị lạc hậu hơn người học nữa. Nhiều nhà khoa học, nhà phát minh lớn nhờ học hỏi từ thực tiễn mà có rất nhiều phát minh, phát kiến vĩ đại như Thomas Edison - người Mỹ học chưa xong lớp 4 nhưng đã có hơn 2000 bằng phát minh, tác giả của câu nói nổi tiếng "thiên tài chỉ có 1% là trí thông minh, còn 99% là nỗ lực của bản thân".
Không nên tư duy rằng việc cho - nhận kiến thức chỉ có 1 chiều từ GV đến HSSV (Teacher to Student), mà GV lại được những người thày ở trên truyền đạt lại kiến thức (Professor to Teacher), tức là chỉ có 1 chiều từ trên xuống dưới. Nếu việc cho - nhận kiến thức chỉ có 1 chiều như thế thì không thể gọi là xã hội học tập, trong một xã hội học tập việc cho - nhận kiến thức phải diễn ra theo nhiều chiều , không chỉ GV đến HS mà còn có chiều từ HS đến GV (student to teacher), GV đến GV (Teacher to teacher), HS đến HS (Student to Student). Và quan hệ đó còn phải là quan hệ qua lại giữa HS/GV với các sự vật/hiện tượng/con người bên ngoài xã hội, ngoài ngành GD, như thế mới gọi là 1 XH học tập, nói như V.I.Lenin " Học trong sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân", đừng nên quan niệm phải đến trường đến lớp, phải có thày, phải có sách thì mới là học, đó là 1 quan niệm nửa vời.
3)Tỷ lệ thực hành/Lý thuyết còn quá thấp.Cần phải tăng tỷ lệ này lên để nâng cao chất lượng GD. Nên chăng XD thật nhiều phần mềm thực hành, thí nghiệm, thực nghiệm ảo, thăm quan ảo 3D trong nhiều lĩnh vực để HSSV có thể dễ dàng ứng dụng, nghiên cứu, và còn tiết kiệm được nhiều hơn là phải tiến hành thí nghiệm thật, thăm quan thật. VD như thay vì đưa HSSV đi thăm quan nhà máy, cao ốc, có thể làm 1 hệ thống thực tại ảo 3D, để có thể ngồi 1 chỗ mà có thể du lịch, tự do khám phá cái nhà máy, cao ốc đó,...Lịch sử và triết học đều thừa nhận : "nhờ lao động mà con người tiến hóa, nhờ lao động mà con người phát triền trí não, phát huy sáng tạo", tức là thừa nhận vai trò của thực tiễn cuộc sống đối với việc phát triển tư duy, sáng tạo. Ấy vậy mà GD VN vẫn còn xem nhẹ thực tiễn, thực hành (có lẽ do cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan?).
4)Thiếu tính định hướng:
Khi người học hỏi “ Học cái này để làm gì thưa thày” thì một số thày ấp úng, như vậy là thiếu sự định hướng, người thày phải biết học kiến thức đó để làm gì ?
Việc hướng nghiệp cho người học còn quá hạn chế, như vậy sẽ bỏ xót rất nhiều tài năng lớn (khi người học không được đi theo hướng phù hợp với mình sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực, lãng phí tài năng). VD như: 1 em có năng khiếu thiên bẩm về tin học, nhưng vì việc hướng nghiệp không tốt nên không phát hiện được tài năng của em ấy, em ấy lại đi theo con đường làm nhà báo, như thế thì cái tài năng của em ấy đã bị lãng phí!!
Không chỉ trong GD mà trong nhiều lĩnh vực khác của sản xuất, khoa học kỹ, thuật , kinh tế, chúng ta rất thiếu tính định hướng (không xác định được sản xuất cho ai, sản xuất ra cái gì, mục đích của sản xuất,...). Câu nói của bác với các nhà báo “Kinh nghiệm của tôi là thế này : mỗi khi viết một bài báo, thì tự đặt câu hỏi : Viết cho ai xem ? Viết để làm gì? Viết như thế nào cho phổ thông, dễ hiểu, ngắn gọn, dễ đọc?” xem ra vẫn đúng cả đối với GD và nhiều lĩnh vực khác, mỗi khi làm gì, đều phải có định hướng.
Các trường cần gắn chặt công tác đào tạo với nhu cầu thực tế của XH, của các Doanh Nghiệp (DN), của đất nước. Cần phải cung cấp những sản phẩm (SP) mà DN cần chứ không phải cung cấp những SP mà trường có. Hiện nay mối liên kết giữa nhà trường (NT) với DN còn rất rời rạc, yếu ớt, chưa được quan tâm đúng mức. Sinh viên được đào tạo thiếu định hướng, học nhiều lý thuyết chung chung, ít thực hành, thực tế, không chuyên sâu vào 1 hướng nào cả, cho nên khi mới ra trường đại đa số chưa thể làm việc được ngay. Nhiều DN phải đào tạo (ĐT) lại tốn rất nhiều thời gian, côn sức, tiền của, gây lãng phí lớn.
Bộ nên có quy định chặt chẽ (có thể cưỡng chế) yêu cầu các trường ĐT phải gắn chặt với thực tế của XH, nếu cứ ĐT ra mà không cần biết cái SP ấy khi ra lò có dùng được hay không thì sẽ gây lãng phí lớn cho đất nước.
NT và DN cần thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ, trao đổi để nêu những khó khăn vướng mắc và cùng nhau tháo gỡ. Các DN nêu rõ yêu cầu của mình về nhân lực (có những phẩm chất gì, chuyên sâu vào hướng nào, số lượng). VD: DN cần 200 lập trình viên Java, 300 lập trình viên C#/C/C+/C++ , cần 150 Designer, cần 50 nhân viên bảo mật (security), có trình độ tiếng Anh C, khả năng tự học, làm việc cường độ cao,...Khi nắm được nhu cầu của DN , nhà trường sẽ có thể phân luồng SV vào các lớp với số lượng như các DN "đặt hàng": 200 SV vào lớp chuyên Java, 300 SV vào lớp chuyên C#/C/C+/C++,... chứ không phải SV nào cũng học tất cả, nhưng cái nào cũng sơ sơ 1 tý, như thế khi ra trường SV sẽ dễ dàng thích ứng với công việc ngay lập tức. Không nên nghĩ khi SV ra trường là NT hết trách nhiệm, cần thường xuyên thống kê xem tỷ lệ SV làm đúng với chuyên ngành ĐT là bao nhiêu % ? , bao nhiêu % làm trái ngành, trái nghề ? Để từ đó có những điều chỉnh thích hợp. Doanh nghiệp có thể hỗ trợ NT kinh phí mua các thiết bị GD, trang bị phòng máy, cấp học bổng cho SV để có thể có chất lượng như mong muốn.
5)Nên chăng thay đổi tâm lý đề cao trường công hơn trường tư, không phân biệt đối xử giữa trường CL và trường NCL? Chúng ta đã từng kinh hoàng khi có hàng ngàn bài báo nói về những yếu kém, sự thua đau, thất bại thảm hại của hàng loạt các công ty nhà nước trước các công ty tư nhân, các công ty liên doanh, 100% vốn nước ngoài do không chịu thay đổi cách nghĩ, cách làm.
Bookmarks